Tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp phức tạp và khó giải quyết nhất. Vậy, thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai là bao lâu? Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là gì?

Thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai là bao lâu?
Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, quyền của giám đốc thẩm được hợp pháp hóa để xem xét lại bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
Giám đốc thẩm vụ án dân sự không là thủ tục xét xử theo quy định của pháp luật về tố tụng. Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án/quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Vụ án tranh chấp đất đai cũng là vụ án dân sự, do vậy, cũng tuân thủ quy định về thời hạn thực hiện giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 327 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, cụ thể như sau:
- Thời hạn để đương sự của vụ án dân sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) thực hiện đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm tới người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm: 01 năm, kể từ ngày bản án/quyết định có hiệu lực mà phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án/quyết định;
- Thời hạn Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác gửi thông báo tới người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: Không quy định thời hạn;
- Thời hạn Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: Không quy định thời hạn;
Khi đương sự phát hiện bản án/quyết định của tòa án đã có hiệu lực mà vi phạm pháp luật thì bị áp dụng thời hiệu để thực hiện quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tiến hành kháng nghị.
Những cơ quan, cá nhân khác không có quy định cụ thể về thời hạn về việc thông báo hoặc đề nghị người có thẩm quyền thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Điều này có nghĩa là không có quy định cụ thể về thời hạn để đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm trong vụ án tranh chấp đất đai. Mọi quy định về thời hạn giám đốc thẩm đều phụ thuộc vào căn cứ pháp luật và quyền hạn của người có thẩm quyền kháng nghị.
Như vậy, pháp luật không quy định thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai.
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm được tiến hành trên cơ sở kết quả của công tác giám đốc việc xét xử. Để đề cao trách nhiệm của những người có thẩm quyền trong việc tổ chức kiểm sát, giám đốc việc xét xử và tránh việc yêu cầu xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật một cách tràn lan, làm mất tính ổn định của bản án, quyết định thì chỉ những người đó mới có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật yêu cầu tòa án có thẩm quyền xét xử lại.
Đương sự và những người khác chỉ có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc thông báo cho những người có thẩm quyền kháng nghị về những sai lầm, vi phạm pháp luật của tòa án đã giải quyết vụ án để những người này xem xét kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đối với tòa án, viện kiểm sát, trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì cũng phải thông báo bằng văn bản cho những người có thẩm quyền kháng nghị để những người này xem xét kháng nghị bản án, quyết định đó.
Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 331 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo quy định này thì chỉ có chánh án tòa án nhân dân cấp cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong đó, việc phân cấp thẩm quyền kháng nghị được thực hiện như sau:
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao;
- Chánh án tòa án nhân dân cấp cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp cào có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án nhân dân cấp tỉnh, tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Việc phân cấp thẩm quyền kháng nghị được quy định trong pháp luật chỉ mang nghĩa tương đối. Trên thực tế Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ yếu chỉ tiến hành kháng nghị đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân cấp cao trong trường hợp phát hiện được sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật phát hiện thấy sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại các điều 213, 313, 324, 349, … Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì các bản án, quyết định này bao gồm:
- Bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
- Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
- Bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm;
- Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của tòa án.
Nói chung đối với tất cả các bản án, quyết định đã có hiệu pháp luật đều có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu phát hiện được sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Tuy vậy, đối với quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao thì không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vì Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì dù có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án cũng không phải là đổi tượng của quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai là gì?
Căn cứ Điều 326 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, có 3 căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án/quyết định tranh chấp đất đai là:
Căn cứ thứ nhất là kết luận trong bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Kết luận của tòa án trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có nghĩa là tòa án giải quyết’ vụ án không đúng với bản chất của sự việc. Để bảo đảm công bằng, công lí trong xét xử thì bản án, quyết định của tòa án đã có I hiệu lực pháp luật đã căn cứ vào kết luận này để giải quyết vụ án phải được xét lại.
Căn cứ thứ hai là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm đương sự không thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình và hậu quả là quyền, lợi ích hợp pháp không được bảo vệ theo quy định pháp luật.
Để giải quyết đúng vụ án dân sự, tòa án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng ưong việc giải quyết vụ án, bảo đảm cho các đương sự thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Mọi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng đều có thể dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được xét lại nếu có vi phạm trong thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng.
Căn cứ thứ ba là có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, hậu quả khiến bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại quyền lợi hợp pháp của đương sự, xâm phạm tới lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc quyền lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là việc tòa án đã áp dụng sai các quy định của pháp luật vào việc giải quyết vụ án. Việc áp dụng sai các quy phạm pháp luật sẽ dẫn đến hậu quả tòa án quyết định sai quyền, nghĩa vụ của các đương sự, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đên lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba vì thế phải xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án.
Kèm theo văn bản/đơn đề nghị giám đốc thẩm, cần phải có bản án, tài liệu chứng minh việc kháng nghị là có căn cứ.
Người có thẩm quyền kháng nghị thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám Những căn cứ này đề cập đến các trường hợp cụ thể mà đương sự có thể dùng để kháng nghị giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định tranh chấp đất đai.
Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định về thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai đối với người có thẩm quyền thực hiện kháng nghị.
———————————
Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.
Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:
- Hotline: 0868697673 – 0945202001
- Fanpage: https://www.facebook.com/THUANLAW.VN/
- Email: thuanlaw.vn@gmail.com
- Website: https://thuanlaw.vn/
Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
