THÊM TRƯỜNG HỢP NHẬN CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TRỒNG LÚA

Từ năm 2025, thêm trường hợp được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa là một trong những nội dung đáng chú ý tại Luật Đất đai sửa đổi.

1. Thêm trường hợp được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa

Luật Đất đai 2024 có hiệu lực từ ngày 01/01/2025, trừ hai quy định sẽ có hiệu lực vào tháng 4/2024 liên quan đến hoạt động lấn biển; lập, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất và sửa đổi Luật Lâm nghiệp.

Luật Đất đai 2024 đã mở rộng đối tượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa. Theo đó, thêm nhiều trường hợp được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng loại đất này.

Nếu như quy định hiện hành theo Luật Đất đai năm 2013 thì hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp và tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng đất trồng lúa để thực hiện dự án sản xuất nông nghiệp, thì Luật Đất đai sửa đổi đã có quy định mới.

Theo đó, căn cứ tại Điều 45 Luật này thì cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp vẫn được nhận chuyển nhượng, tặng cho đất trồng lúa.

Khoản 6 Điều 3 Luật Đất đai mới cũng quy định rõ, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp là cá nhân đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp; nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp mà có thu nhập từ sản xuất nông nghiệp trên đất đó theo quy định của Chính phủ.

Điều 177 Luật Đất đai sửa đổi quy định trong trường hợp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa vượt quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất thì phải thành lập tổ chức kinh tế và có phương án sử dụng đất trồng lúa và được UBND cấp huyện phê duyệt, trừ trường hợp người nhận tặng cho là người thuộc hàng thừa kế.

Ngoài cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp, tổ chức kinh tế cũng được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp thì kể từ 01/01/2025 nhưng phải có phương án sử dụng đất nông nghiệp được UBND cấp huyện chấp thuận.

Phương án sử dụng đất nông nghiệp (áp dụng với cả chủ thể là cá nhân và tổ chức kinh tế) theo quy định tại khoản 6 Điều 45 Luật Đất đai phải có các nội dung chính gồm:

  • Địa điểm, diện tích, mục đích sử dụng đất;
  • Kế hoạch sản xuất, kinh doanh nông nghiệp;
  • Vốn đầu tư;
  • Thời hạn sử dụng đất;
  • Tiến độ sử dụng đất.

Về điều kiện chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp, Điều 47 Luật Đất đai sửa đổi quy định:

“Cá nhân sử dụng đất nông nghiệp do được Nhà nước giao đất, do chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác thì chỉ được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng đơn vị hành chính cấp tỉnh cho cá nhân khác và không phải nộp thuế thu nhập từ việc chuyển đổi quyền sử dụng đất và lệ phí trước bạ.

2. Bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Của hộ gia đình, cá nhân:

Điều 96 quy định:

  • Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định thì được bồi thường bằng đất nông nghiệp hoặc bằng tiền hoặc bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở.
  • Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất thì việc bồi thường về đất nông nghiệp được quy định như sau:

+ Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong hạn mức quy định và diện tích đất do được nhận thừa kế;

+  Đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng đất vượt hạn mức trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

  • Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì việc bồi thường được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Của tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc

Điều 97 Luật quy định:

  • Tổ chức kinh tế đang sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định thì được bồi thường về đất.
  • Cộng đồng dân cư, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định thì được bồi thường về đất.

Trên đây là thông tin về việc thêm trường hợp được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa.

———————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

LUẬT ĐẤT ĐAI MỚI BỔ SUNG 02 HÌNH THỨC BỒI THƯỜNG CHO NGƯỜI BỊ THU HỒI ĐẤT

1.      Luật Đất đai mới bổ sung 2 hình thức bồi thường cho người dân bị thu hồi đất

Ngày 18/01, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội bế mạc Kỳ họp bất thường lần thứ 5. Với đa số phiếu tán thành Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai (sửa đổi).

Luật Đất đai sửa đổi dự kiến sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 252 Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi (khoản 1 Điều 252 Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi).

Tại khoản 2 Điều 91 Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi quy định nguyên tắc bồi thường cho người dân bị thu hồi đất như sau:

Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

1. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, kịp thời và đúng quy định của pháp luật; vì lợi ích chung của cộng đồng và vì sự phát triển bền vững, văn minh và hiện đại của cộng đồng, của địa phương; quan tâm đến đối tượng chính sách xã hội, đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp.

2. Việc bồi thường về đất được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, trường hợp không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trường hợp người có đất thu hồi được bồi thường bằng đất, bằng nhà ở mà có nhu cầu được bồi thường bằng tiền thì được bồi thường bằng tiền theo nguyện vọng đã đăng ký khi lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Đối với người có đất thu hồi nếu có nhu cầu và địa phương có điều kiện về quỹ đất, quỹ nhà ở thì được xem xét bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất thu hồi hoặc nhà ở.

Như vậy, việc bồi thường đất từ ngày 01/01/2025 bao gồm các hình thức sau:

(1) Giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi
(2) Bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường (đối với trường hợp không có đất để bồi thường)
(3) Bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất thu hồi
(4) Bồi thường bằng nhà ở.

Việc bồi thường về đất theo quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai 2013 hiện nay qua 2 hình thức:

(1) Giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi

(2) Bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể (đối với trường hợp không có đất để bồi thường)

Theo đó, từ ngày 01/01/2025 Luật Đất đai mới có hiệu lực, bổ sung thêm 2 hình thức bồi thường về đất:

  • Bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất thu hồi
  • Bồi thường bằng nhà ở.

2.      Thời gian chi trả bồi thường cho người dân bị thu hồi đất từ ngày 01/05/2024 theo Luật Đất đai mới là bao lâu?

Tại khoản 3 Điều 94 Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi quy định về kinh phí và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như sau:

Kinh phí và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

1. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do Nhà nước bảo đảm. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bao gồm: tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất; chi phí bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chi phí khác.

3. Việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện như sau:

a) Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, đơn vị, tổ chức thực hiện bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản;

b) Trường hợp cơ quan, đơn vị, tổ chức thực hiện bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản, ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả.

Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có trách nhiệm phê duyệt phương án chi trả bồi thường chậm cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản. Kinh phí chi trả bồi thường chậm được lấy từ ngân sách của cấp phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Như vậy, theo quy định trên, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành phải thực hiện bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản.

3.      Đối tượng nào áp dụng Luật Đất đai sửa đổi mới nhất?

Tại Điều 2 Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng Luật Đất đai mới:

(1) Cơ quan nhà nước thực hiện quyền hạn và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.

(2) Người sử dụng đất.

(3) Các đối tượng khác có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất.

———————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CHỈ 01 TRƯỜNG HỢP HỘ GIA ĐÌNH ĐƯỢC GIAO ĐẤT Ở THEO LUẬT MỚI

Luật Đất đai 2024 được thông qua với nhiều thay đổi, một trong số đó là những chính sách liên quan đến hộ gia đình sử dụng đất. Luật Đất đai mới quy định chỉ một trường hợp hộ gia đình được giao đất ở từ 01/01/2025 đúng không?

Chỉ 01 trường hợp hộ gia đình được giao đất ở theo Luật mới?

Luật Đất đai 2024 không còn ghi nhận đối tượng hộ gia đình sử dụng đất. Theo đó, khoản 25 Điều 3 Luật này định nghĩa:

25. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Theo đó, định nghĩa về hộ gia đình sử dụng đất tại Luật Đất đai 2024 gần như giữ nguyên so với Luật Đất đai 2013. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất chính là chỉ công nhận đối tượng hộ gia đình sử dụng đất trước ngày Luật Đất đai 2024 có hiệu lực.

Tức là, từ ngày 01/01/2025, hộ gia đình sử dụng đất sẽ không được giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất với tư cách hộ gia đình sử dụng đất nữa.

Căn cứ theo Khoản 4 Điều 119, khoản 2 Điều 259 Luật Đất đai 2024, từ ngày 01/01/2025, hộ gia đình chỉ được giao đất (trong đó có giao đất ở), cho thuê đất nếu thuộc trường hợp được bồi thường bằng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Mà trong quyết định giao đất, cho thuê đất phải ghi cụ thể các cá nhân là thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất.

Như vậy, nếu không có gì thay đổi khi ban hành Luật Đất đai sửa đổi mới nhất thì theo Luật Đất đai 2024 từ ngày 01/01/2025, chỉ còn 01 trường hợp duy nhất, Nhà nước sẽ giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình.

Ngoài ra, Điều 259 Luật Đất đai 2024 cũng quy định cách xử lý đối với quyền sử dụng đất hộ gia đình có trước ngày 01/01/2025 như sau:
  • Tham gia quan hệ pháp luật về đất đai với tư cách nhóm người sử dụng đất, theo đó, thực hiện quyền và nghĩa vụ như cá nhân sử dụng đất.
  • Giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình để thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt: Phải ghi cụ thể các cá nhân là thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất vào quyết định giao đất, cho thuê đất.
  • Hộ gia đình được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trước ngày 01/01/2025: Được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn sử dụng đất còn lại.

Khi hết thời hạn sử dụng đất thì được gia hạn theo hình thức giao đất, cho thuê đất cho các cá nhân là thành viên hộ gia đình đó.

Sổ đỏ hộ gia đình ghi tên tất cả các thành viên theo thỏa thuận

Theo quy định tại khoản 5 Điều 135 Luật Đất đai 2024, trường hợp thửa đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình (được xác định trước 01/01/2025) thì cấp 01 Sổ đỏ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất) ghi đầy đủ tên thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình.

Trường hợp các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu thì cấp 01 Sổ đỏ ghi tên đại diện hộ gia đình và trao cho người đại diện hộ gia đình.

Theo đó, việc xác định các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình để ghi tên trên Sổ đỏ do các thành viên này tự thỏa thuận và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Như vậy, Sổ đỏ hộ gia đình sẽ ghi tên các thành viên trong hộ gia đình theo thỏa thuận (trừ trường hợp các thành viên cùng đồng ý ghi tên đại diện hộ gia đình).

Trên đây là thông tin liên quan đến vấn đề trường hợp hộ gia đình được giao đất theo Luật mới.

———————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CHA MẸ ĐƯƠNG NHIÊN LÀ NGƯỜI GIÁM HỘ CON CHƯA THÀNH NIÊN CÓ ĐÚNG KHÔNG?

Cha, mẹ đương nhiên là người giám hộ của con chưa thành niên có đúng không? Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt? Giám hộ có cần phải giám sát không?

1. Cha, mẹ đương nhiên là người giám hộ của con chưa thành niên có đúng không?

(1) Căn cứ Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau:

  • Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
  • Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
  • Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại hai trường hợp nêu trên.
  • Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

(2) Căn cứ Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám hộ như sau:

  • Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
  • Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.
  • Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.

(3) Căn cứ Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người được giám hộ như sau:

  • Người được giám hộ bao gồm:

+ Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;

+ Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;

+ Người mất năng lực hành vi dân sự;

+ Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

  • Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu.

Như vậy, trường hợp cha mẹ còn sống sẽ là người đại diện của con chưa thành niên chứ không phải người giám hộ. Chỉ khi người chưa thành niên không còn cha mẹ; cha và mẹ mất năng lực hành vi dân sự; cha và mẹ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con; hoặc không xác định được cha mẹ mới đặt ra vấn đề người giám hộ.

2. Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt?

(1) Căn cứ Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:

  • Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

  • Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

(2) Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự

  • Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.

  • Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
  • Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Như vậy, từ căn cứ trên nếu trường hợp người đã đủ 18 tuổi nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn cần có người giám hộ.

3. Giám hộ có cần phải giám sát không?

Căn cứ Điều 51 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám sát việc giám hộ như sau:

  • Người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc giám hộ.

Việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó. Trường hợp giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ.

Người thân thích của người được giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người được giám hộ.

  • Trường hợp không có người thân thích của người được giám hộ hoặc những người thân thích không cử, chọn được người giám sát việc giám hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người giám hộ cử cá nhân hoặc pháp nhân giám sát việc giám hộ. Trường hợp có tranh chấp về việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ thì Tòa án quyết định.
  • Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát.
  • Người giám sát việc giám hộ có quyền và nghĩa vụ sau đây:

+ Theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ;

+ Xem xét, có ý kiến kịp thời bằng văn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự quy định tại Điều 59 của Bộ luật này;

+ Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ.

Như vậy theo quy định pháp luật người giám hộ vẫn phải có người giám sát để theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ; Xem xét, có ý kiến kịp thời bằng văn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự quy định tại Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015; Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ.

Trên đây là những quy định pháp luật liên quan đến nội dung giám hộ và người giám hộ.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

PHÂN BIỆT PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT VÀ TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI

Phân biệt trường hợp phạm tội chưa đạt với hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội như thế nào? Như thế nào được coi là phạm tội chưa đạt theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành.

1. Thế nào là phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội?

Phạm tội chưa đạt theo Bộ luật Hình sự

Có 3 cấu thành tội phạm như sau: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội hoàn thành.

Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015 quy định phạm tội chưa đạt là việc người phạm tội có ý thực hiện hành vi tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng do nguyên nhân khác quan ngoài ý muốn.

Phạm tội chưa đạt thường có các đặc điểm sau:

  • Người phạm tội đã tiến hành các hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm
  • Người phạm tội không thực hiện được được tội phạm đến cùng
  • Nguyên nhân của trạng thái này là do nguyên nhân khách quan, nằm ngoài sự kiểm soát, ý thức chủ quan của người phạm tội.

Phạm tội chưa đạt có hai dạng như sau:

Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành (chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi): Người phạm tội vì những nguyên nhân khách quan mà chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, do đó, hậu quả của tội phạm đã không xảy ra.

Ví dụ: A cầm cây gỗ dài định đánh vào lưng B thì có người ngăn cản, A không thể thực hiện hành vi của mình. Hành vi này của A là hành vi phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.

Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Người phạm tội đã thực hiện được hết những hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng hậu quả đã không xảy ra do nguyên nhân ngoài ý muốn.

Ví dụ: A dùng cây kéo nhọn đâm nhiều lần vào ngực B để giết chết B sau đó thấy B bất tỉnh nên A đã bỏ đi. B được phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời nên không chết. Hành vi này của A là hành vi phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.

2. Người phạm tội chưa đạt sẽ bị xử lý hình sự như thế nào theo Bộ luật Hình sự

Căn cứ Khoản 1, Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015 quy định quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt như sau:

  • Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
  • Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

3. Phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có điểm giống và khác nhau như sau:

Căn cứ Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

Một số điều kiện để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:

  • Việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải tự nguyện, dứt khoát
  • Việc chấm dứt thực hiện tội phạm xảy ra trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành
  • Không chịu tác động từ các điều kiện khách quan

* Giống nhau: Hành vi phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đều có kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra.

* Điểm khác nhau:

  • Về nguyên nhân:

+ Tội phạm chưa đạt: nguyên nhân dẫn đến tội phạm chưa đạt là do yếu tố khách quan làm cản trở hành vi phạm tội của người đó.

+ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có nguyên nhân là tự ý thức chủ quan của người có hành vi phạm tội. Người đó tự nguyện chấm dứt hành vi mà không phải do yếu tố khách quan tác động đến.

  • Về trách nhiệm hình sự:

+ Phạm tội chưa đạt: chịu TNHS về tội phạm chưa đạt

+ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội: được miễn TNHS hoặc nếu hành vi đủ yếu tố cấu thành nên tội khách thì sẽ bị truy cứu TNHS về tội đó.

4. Hậu quả của việc phạm tội chưa đạt? Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt

Hậu quả của phạm tội chưa đạt là phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.

Theo Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015, Khi quyết định hình phạt đối với hành vi này thì Tòa án sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, mức độ thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác trong vụ án dẫn đến việc người phạm tội không thể thực hiện được hành vi đến cùng.

Nguyên tắc của quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt là nếu điều luật được áp dụng có hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù có thời hạn không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì không quá 3/4 mức phạt tù quy định.

Đối với người phạm tội chưa đạt chưa đủ 18 tuổi thì quyết định hình phạt như sau:

  • Mức hình phạt cao nhất của người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là không quá 1/3 mức phạt quy định tại điều 100 và 101 Bộ luật Hình sự 2015;
  • Mức hình phạt cao nhất của người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là không quá 1/2 mức phạt quy định tại điều 99, điều 100 và 101 Bộ luật Hình sự 2015;

Trên đây là một số nội dung về phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

—————————–

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!