
Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp các bên ký kết hợp đồng mà trong đó các bên ấn định về số tiền phải bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng. Tại điều khoản về bồi thường thiệt hại các bên thỏa thuận rằng nếu một bên vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng thì bên vi phạm sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên còn lại một khoản tiền hay một mức bồi thường được ước tính. Mục đích của các bên khi ấn định trước khoản tiền bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là muốn tránh các thủ tục tranh chấp kéo dài và có cơ chế xác định mức thiệt hại. Ta thường gặp điều khoản này ở các hợp đồng như hợp đồng mua bán cổ phần, hợp đồng vay và hợp đồng xây dựng. Vậy hiệu lực của thỏa thuận về việc ấn định trước mức bồi thường thiệt hại hợp đồng.
Khoản 2 điều 302 Luật Thương mại 2005 quy định “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Theo điều luật này, mức bồi thường thiệt hại chỉ có thể là mức thiệt hại thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng. Điều này đồng nghĩa với việc các bên không được thỏa thuận một mức bồi thường thiệt hại cố định không tương ứng với các khoản tiền này.
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 công nhận thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về vật chất là:
- Tổn thất về tài sản;
- Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Mặt khác, Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ có nội dung “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Quy định này chưa thực sự rõ ràng về hiệu lực của điều khoản quy định mức bồi thường thiệt hại cố định trong hợp đồng.
Hiện nay, có hai cách hiểu quy định này:
- Thứ nhất, các bên có thể thỏa thuận một khoản tiền bồi thường thiệt hại nhất định trong hợp đồng.
- Thứ hai, các bên chỉ có thể thỏa thuận về việc bồi thường một phần hay toàn bộ thiệt hại thực tế phát sinh.
Như vậy, xét về mặt thực tiễn, bồi thường thiệt hại ấn định trước chưa được thừa nhận chính thức bởi pháp luật Việt Nam. Điều khoản mà các bên ấn định trước mức bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thông thường sẽ không được Tòa án công nhận hoặc có một số trường hợp thỏa thuận này được coi là thỏa thuận phạt vi phạm.
Trong thực tế xét xử, một số tòa án đi theo cách tiếp cận của Luật Thương mại và chỉ công nhận quyền được nhận bồi thường thiệt hại thực tế và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng. Ngược lại, một số trọng tài lại cho rằng, theo quy định của Bộ luật Dân sự nêu trên cho phép các bên tự do thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại.
Pháp luật nên cho phép và quy định rõ hơn về việc ấn định trước khoản tiền bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Tuy nhiên để tránh tình trạng một bên trong hợp đồng chèn ép bên yếu thế, buộc bên yếu thế phải chấp nhận mức bồi thường bất hợp lý thì nên quy định điều khoản thỏa thuận mức bồi thường thiệt hại sẽ không có hiệu lực khi quy định trước một mức bồi thường thiệt hại quá lớn, khó chấp nhận được. Đồng thời việc quy định rõ ràng này vừa giúp giảm thiểu chi phí thương lượng hay chi phí tố tụng, vừa giúp thể hiện sự tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng.
————————————–
Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.
Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:
- Hotline: 0868697673 – 0945202001
- Fanpage: https://www.facebook.com/THUANLAW.VN/
- Email: thuanlaw.vn@gmail.com
- Website: https://thuanlaw.vn/
Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
