Tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội. Các yếu tố cấu thành của tội cưỡng đoạt tài sản gồm những gì?

Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định theo hành vi phạm tội cụ thể
Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên (phạm tội thuộc khoản 1) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (phạm tội thuộc các khoản 2,3,4) và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 135, vì khoản 1 Điều 135 là tội phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
Mặt khách quan của tội phạm
Tội cưỡng đoạt tài sản có các dấu hiệu sau:
Có hành vi đe dọa dùng vũ lực. Hành vi đe dọa dùng vũ lực được hiểu là hành vi của người phạm tội đe dọa sẽ thực hiện một hành động để gây thiệt hại cho người bị hại. Hành vi này nhằm mục đích làm cho người bị hại sợ và giao tài sản cho người phạm tội chiếm đoạt theo yêu cầu của người phạm tội đưa ra.
Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi có thể được thực hiện bằng cử chỉ, hành động hoặc bằng lời nói, và việc dùng vũ lực cũng không xảy ra ngay tức khắc. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định về thời gian. Do vậy, người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt với tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự.
Việc đe doạ được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Người phạm tội có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhưng cũng có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người khác (chủ yếu là đối với người thân của người có trách nhiệm với tài sản).
Ngoài hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản, thì người phạm tội còn có thể thực hiện những thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản để chiếm đoạt tài sản. Những thủ đoạn như: Doạ sẽ huỷ hoại tài sản; doạ sẽ tố cáo hành vi sai phạm hoặc những bí mật đời tư; bịa đặt, vu khống người có trách nhiệm về tài sản;…
Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức, và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi phân tích ở trên chứ không phụ thuộc vào việc có chiếm đoạt được tài sản hay không. Do đó, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dạo sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành.
Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản
Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như khách thể của tội cướp tài sản và tội bắt cọc nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi của tội phạm xâm phạm đến quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu tài sản của người khác, trong đó chủ yếu là quan hệ sở hữu.
Việc xâm phạm đến quan hệ nhân thân không phải là mục đích của tội phạm mà chỉ là đe dọa tinh thần của người bị hại làm cho người bị hại phải giao tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.
Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:
- Hotline: 08 6869 7673 – 0945 202 001
- Fanpage: https://www.facebook.com/THUANLAW.VN/
- Email: thuanlaw.vn@gmail.com
- Website: https://thuanlaw.vn/
Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
