XÁC ĐỊNH TÀI SẢN LÀ NHÀ ĐẤT TRONG KHỐI TÀI SẢN CHUNG NHƯ THẾ NÀO KHI CHIA THỪA KẾ?

Nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung với người khác thì xác định phần của người để lại di sản như thế nào khi chia thừa kế?

1. Xác định tài sản là nhà đất trong khối tài sản chung của vợ chồng như thế nào khi chia thừa kế?

Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:

Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng…

Theo đó, tài sản là nhà đất là tài sản chung của vợ chồng khi:

  • Hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung của vợ chồng
  • Được chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế… chung
  • Tài sản riêng nhưng đã nhập vào tài sản chung

Theo Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

Theo đó, khi xác định tài sản là nhà đất trong khối tài sản chung của vợ chồng thì thường sẽ chia đôi. Sau đó sẽ lấy phần của người để lại di sản để chia thừa kế theo quy định của pháp luật.

2. Xác định tài sản là nhà đất trong khối tài sản chung của hộ gia đình như thế nào khi chia thừa kế?

Theo khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định về hộ gia đình sử dụng đất như sau:

Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

29. Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Theo Điều 212 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về sở hữu chung của các thành viên gia đình như sau:

Sở hữu chung của các thành viên gia đình

1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.

Theo đó, việc xác định tài sản là nhà đất trong khối tài sản chung của hộ gia đình thì sẽ dựa trên thỏa thuận của các thành viên trong hộ gia đình đó. Tuy nhiên trên thực tế thông thường tài sản là nhà đất thuộc sở hữu chung hộ gia đình thì sẽ chia đều cho các thành viên.

Sau đó phần của người để lại di sản sẽ chia thừa kế theo quy định của pháp luật

3. Xác định tài sản là nhà đất trong khối tài sản chung của nhiều người bên ngoài như thế nào khi chia thừa kế?

Theo khoản 2 Điều 98 Luật Đất đai 2013 quy định về nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất như sau:

Nguyên tắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất

….

2. Thửa đất có nhiều người chung quyền sử dụng đất, nhiều người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và cấp cho mỗi người 01 Giấy chứng nhận; trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp chung một Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện.

Theo Điều 209 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về sở hữu chung theo phần như sau:

Sở hữu chung theo phần

1. Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung.

2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Theo đó, khi xác định tài sản là nhà đất trong khối tài sản chung của nhiều người, tức là trường hợp nhiều người cùng góp tài sản để mua thì sẽ phân chia theo số phần góp tài sản của mỗi người trong khối tài sản chung đó. Việc xác định sẽ thực hiện theo tỷ lệ phần trăm trên tổng số tài sản chung.

Sau đó, khi đã xác định được phần góp của người để lại di sản trong khối tài sản chung thì sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động tiếp theo theo quy định pháp luật để chia thừa kế.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CHI NHÁNH, VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN CÓ ĐƯỢC KÝ HỢP ĐỒNG KHÔNG?

Chi nhánh, văn phòng đại diện là những đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, vậy, liệu chi nhánh, văn phòng đại diện có được ký hợp đồng không?

1. Chi nhánh, văn phòng đại diện không có tư cách pháp nhân

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2020, chi nhánh và văn phòng đại diện được định nghĩa như sau:

  • Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp, bao gồm cả chức năng đại diện theo ủy quyền.
  • Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích đó. Văn phòng đại diện không thực hiện chức năng kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong khi đó, Theo khoản 1 Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được coi là có tư cách pháp nhân khi đáp ứng đủ 04 điều kiện sau đây:

  • Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
  • Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
  • Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
  • Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
  • Chi nhánh và văn phòng đại diện đều là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, mọi hoạt động của chi nhánh đều phụ thuộc vào doanh nghiệp và thông qua việc uỷ quyền. Do đó, chi nhánh và văn phòng đại diện không tham gia các quan hệ pháp luật với tư cách độc lập nên không được coi là có tư cách pháp nhân.

2. Chi nhánh, văn phòng đại diện có được ký hợp đồng không?

Thông thường chi nhánh, văn phòng đại diện sẽ được ủy quyền cho phép ký các hợp đồng với các đối tác của công ty dưới tư cách của công ty.

Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.

Dù không có tư cách pháp nhân nhưng chi nhánh, văn phòng đại diện vẫn có thể ký kết hợp, trở thành một bên trong quan hệ hợp đồng.

Khoản 5 Điều 84 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền.”

Theo đó, người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện không đương nhiên có quyền đại diện cho chi nhánh, văn phòng đại diện ký kết hợp đồng mà quyền này chỉ phát sinh khi có ủy quyền của người đại diện của công ty.

Phạm vi ủy quyền do người đại diện theo pháp luật của công ty quyết định. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, công ty cũng có quyền hủy việc ủy quyền cho người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện.

Khi chi nhánh, văn phòng đại diện ký kết một số hợp đồng hoặc thực hiện một số công việc mà cần sự cho phép của công ty, người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện phải xuất trình được văn bản uỷ quyền của công ty.

Ví dụ: Đối với việc ký kết hợp đồng lao động trong công ty:

Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 63 Luật Doanh nghiệp 2020, giám đốc công ty TNHH 2 thành viên có quyền tuyển dụng lao động. Do chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của công ty nên giám đốc công ty là người có quyền tuyển dụng lao động cho chi nhánh, văn phòng đại diện.

Trường hợp người lao động ký kết hợp đồng lao động với giám đốc chi nhánh, văn phòng đại diện, người lao động phải yêu cầu người sử dụng lao động xuất trình văn bản uỷ quyền của công ty về việc giám đốc chi nhánh, văn phòng đại diện được phép ký kết hợp đồng lao động.

Như vậy, chi nhánh, văn phòng đại diện hoàn toàn có quyền ký kết hợp đồng nếu việc ký kết này nằm trong phạm vi công việc được công ty uỷ quyền.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

HAI TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC MIỄN THUẾ TNCN KHI MUA BÁN NHÀ ĐẤT

Khi chuyển nhượng (mua bán) nhà đất thì người bán có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân bằng 2% giá trị chuyển nhượng. Tuy nhiên, có 02 trường hợp được miễn thuế khi mua bán nhà đất, như sau:

1. Mua bán giữa người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng

Theo điểm a khoản 1 Điều 3 Thông tư 111/2013/TT-BTC thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (bao gồm cả nhà ở hình thành trong tương lai, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo quy định pháp luật về kinh doanh bất động sản) giữa những người sau thì được miễn thuế thu nhập cá nhân. Cụ thể:

  • Giữa vợ với chồng;
  • Cha, mẹ đẻ với con đẻ;
  • Cha, mẹ nuôi với con nuôi;
  • Cha, mẹ chồng với con dâu;
  • Bố, mẹ vợ với con rể;
  • Ông, bà nội với cháu nội;
  • Ông, bà ngoại với cháu ngoại;
  • Anh, chị, em ruột với nhau.

Ngoài ra, trường hợp bất động sản do vợ hoặc chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn được phân chia theo thỏa thuận hoặc do tòa án phán quyết thì việc phân chia tài sản đó thuộc diện được miễn thuế.

2. Người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, một thửa đất

Theo điểm b khoản 1 Điều 3 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì không phải nộp thuế (chỉ đất ở được miễn, các loại đất khác thì vẫn phải nộp thuế)

Trong trường hợp này muốn được miễn thuế thu nhập cá nhân thì phải đáp ứng đủ 03 điều kiện sau:

Điều kiện 1: Chỉ có duy nhất quyền sở hữu một nhà ở hoặc quyền sử dụng một thửa đất ở

Chỉ có duy nhất quyền sở hữu một nhà ở hoặc quyền sử dụng một thửa đất ở (bao gồm cả trường hợp có nhà ở hoặc công trình xây dựng gắn liền với thửa đất đó) tại thời điểm chuyển nhượng, cụ thể:

  • Việc xác định quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
  • Cá nhân có chung quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở còn có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở khác không được miễn thuế.
  • Trường hợp vợ chồng có chung quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở và cũng là duy nhất của chung vợ chồng nhưng vợ hoặc chồng còn có nhà ở, đất ở riêng, khi chuyển nhượng nhà ở, đất ở của chung vợ chồng thì vợ hoặc chồng chưa có nhà ở, đất ở riêng được miễn thuế; chồng hoặc vợ có nhà ở, đất ở riêng không được miễn thuế.

Điều kiện 2: Có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở tối thiểu 06 tháng

  • Có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở tính đến thời điểm chuyển nhượng tối thiểu là 183 ngày.
  • Thời điểm xác định quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở là ngày cấp giấy chứng nhận.

Lưu ý: Riêng trường hợp được cấp lại, cấp đổi thì thời điểm xác định quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở được tính theo thời điểm cấp Giấy chứng nhận trước khi được cấp lại, cấp đổi.

Điều kiện 3. Chuyển nhượng toàn bộ nhà ở, đất ở

  • Trường hợp cá nhân có quyền hoặc chung quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất ở duy nhất nhưng chuyển nhượng một phần thì không được miễn thuế cho phần chuyển nhượng đó.
Trách nhiệm của cá nhân khi mua bán nhà đất:
  • Nhà ở, đất ở duy nhất được miễn thuế do cá nhân chuyển nhượng bất động sản tự khai và chịu trách nhiệm.
  • Nếu phát hiện không đúng sẽ bị xử lý truy thu thuế và bị xử phạt vi phạm.

Trên đây là 02 trường hợp được miễn thuế TNCN khi mua bán nhà đất.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

1.      Quy định của pháp luật

Quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức trong quá trình giải quyết vụ án dân sự (VADS) lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989: 

“Khi xét xử VADS, Tòa án có quyền hủy quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết”.

Tuy nhiên, quy định này đã không được giữ lại trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004. Đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/3/2011 (gọi tắt là BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định lại thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức. Theo đó, khoản 2 Điều 32a BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định:

“Trường hợp vụ việc dân sự (VVDS) có liên quan đến quyết định cá biệt bị yêu cầu hủy quy định tại khoản 1 Điều này, thì quyết định cá biệt đó được Tòa án xem xét trong cùng VVDS. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết VVDS đó được xác định theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Luật Tố tụng hành chính (LTTHC)”. 

Tại khoản 1 Điều 29 LTTHC năm 20110 quy định: “Khiếu kiện quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó”. Như vậy, trong giai đoạn LTTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành, thì Tòa án cấp huyện vẫn có thẩm quyền hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, kể cả quyết định cá biệt do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành.

Tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 01) quy định:

“1. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án khi đương sự có yêu cầu Tòa án hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật được thực hiện theo quy định tại Điều 29 và Điều 30 LTTHC và hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của LTTHC.

Trường hợp sau khi TAND cấp huyện đã thụ lý VVDS, đương sự mới bổ sung yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 30 LTTHC ban hành và thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, thì TAND cấp huyện ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc cho TAND cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền quy định của BLTTDS. 

Trường hợp khi TAND cấp tỉnh đã thụ lý VVDS nhưng trong quá trình giải quyết, thấy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật hoặc quyết định cá biệt thuộc thẩm quyền TAND cấp huyện theo quy định tại Điều 29 LTTHC, thì TAND cấp tỉnh vẫn tiếp tục giải quyết VVDS. 

Trường hợp khi TAND cấp tỉnh đã thụ lý VVDS nhưng trong quá trình giải quyết, đương sự rút yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật hoặc người ban hành quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật sửa đổi, hủy bỏ quyết định đó, thì TAND cấp tỉnh vẫn tiếp tục giải quyết VVDS.”

Theo quy định tại khoản 4 Điều 34 của BLTTDS năm 2015: “Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết VVDS trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của LTTHC về thẩm quyền của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh”. Theo đó, tại khoản 4 Điều 32 LTTHC năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh: “Khiếu kiện quyết QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”. Việc sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền của từng cấp Tòa án là để phù hợp với các quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 và bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết khiếu kiện hành chính, nhằm khắc phục  những hạn chế, bất cập trên thực tiễn và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong công tác giải quyết các khiếu kiện hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp, nhanh chóng lập lại trật tự trong quản lý hành chính nhà nước, kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Như vậy, kể từ ngày 1/7/2016 thì thẩm quyền của Tòa án trong việc hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.

Điểm khác biệt trong quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức giữa Điều 32a BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 với Điều 34 BLTTDS năm 2015, đó là:

Quy định tại Điều 32a BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, thì Tòa án chỉ có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định cá biệt trong cùng VADS khi đương sự có yêu cầu. Trong quá trình giải quyết VADS, nếu Tòa án phát hiện quyết định cá biệt trái pháp luật có ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự nhưng đương sự không có yêu cầu, thì Tòa án cũng không có thẩm quyền hủy quyết định cá biệt đó. Quy định như vậy không đáp ứng được yêu cầu của việc giải quyết VVDS. Do đó, BLTTDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “bị yêu cầu hủy”.

Như vậy, khi giải quyết VVDS, thì Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong VVDS mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết trong cùng một VVDS.

2.      Giải đáp nghiệp vụ của TANDTC để áp dụng thống nhất pháp luật trong hệ thống Tòa án

Theo giải đáp tại Phần II Giải đáp nghiệp vụ số 02/2016/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC thì:

“Khi giải quyết VVDS có liên quan đến quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức thì Tòa án phải xem xét, đánh giá về tính hợp pháp của quyết định cá biệt đó.

Trường hợp quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn VVDS mà việc hủy quyết định đó không làm thay đổi thẩm quyền giải quyết VVDS thì Tòa án đang giải quyết VVDS tiếp tục giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.

Trường hợp việc xem xét hủy quyết định đó dẫn đến thay đổi thẩm quyền giải quyết VVDS xác định theo quy định tương ứng của LTTHC về thẩm quyền của TAND cấp tỉnh thì TAND cấp huyện đang thụ lý giải quyết VVDS phải chuyển vụ việc cho TAND cấp tỉnh giải quyết và xem xét hủy quyết định đó.

Ví dụ 1: Ông A khởi kiện tại Tòa án huyện X tỉnh Y yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông B phải trả lại quyền sử dụng đất (QSDĐ) mà trước đó ông A cho ông B mượn. Khi giải quyết vụ án, TAND huyện X nhận thấy trong thời gian mượn đất, ông B đã có hành vi gian dối làm thủ tục để được UBND huyện X cấp giấy chứng nhận QSDĐ; để giải quyết yêu cầu đòi lại QSDĐ của ông A thì phải xem xét hủy giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho ông B và phải đưa UBND huyện X tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp này, thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết VVDS có xem xét việc hủy giấy chứng nhận QSDĐ được xác định theo khoản 4 Điều 32 Luật TTHC. Do vậy, TAND huyện X phải chuyển VADS nêu trên cho TAND tỉnh Y giải quyết và xem xét hủy giấy chứng nhận QSDĐ.

Trường hợp khi giải quyết VVDS có liên quan đến quyết định cá biệt nhưng không cần thiết phải hủy quyết định cá biệt đó và việc không hủy quyết định đó vẫn đảm bảo giải quyết đúng đắn VVDS thì Tòa án đang giải quyết VVDS tiếp tục giải quyết.

Ví dụ 2: Ông A, bà B là các con của cụ D, cụ E khởi kiện tại TAND huyện X tỉnh Y yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế tài sản là QSDĐ của cụ D, cụ E. Khi còn sống, cụ D và cụ E đã được UBND huyện X cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Trường hợp này, khi giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản không cần thiết phải xem xét hủy giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho cụ D, cụ E nên TAND huyện X tiếp tục giải quyết vụ án.”

Tại Mục 3 Giải đáp nghiệp vụ số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018 của TAND tối cao về việc giải đáp một số vấn đề về TTHC hướng dẫn: Trong trường hợp ban đầu người khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ, Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính; sau đó, người khởi kiện bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến giấy chứng nhận QSDĐ là đối tượng khởi kiện ban đầu. Trường hợp này, Tòa án phải hướng dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính để khởi kiện VADS. Nếu đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính, đồng thời có đơn khởi kiện VADS tranh chấp về đất đai thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 143 của LTTHC năm 2015 để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét, thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết bằng VADS theo thủ tục chung. Trường hợp đương sự không rút đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 141 của LTTHC năm 2015 tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả giải quyết VADS. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ liên quan đến nhau và có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì TAND cấp tỉnh căn cứ vào khoản 1 Điều 34 của LTTHC năm 2015 và Điều 34 của BLTTDS năm 2015 để giải quyết đồng thời hai yêu cầu của đương sự trong cùng một vụ án mà không chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp huyện giải quyết. Tuy nhiên, trường hợp này khi vụ án hành chính đang được thụ lý giải quyết ở Tòa án cấp tỉnh. Việc phát sinh yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai chỉ làm thay đổi loại án từ hành chính sang dân sự và Thẩm phán được phân công chỉ xác định lại loại án và mối quan hệ tranh chấp để giải quyết.

Tại Mục 2 phần III Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TAND tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và TTHC hướng dẫn: Trường hợp, trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho QSDĐ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đó cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho QSDĐ. Sau đó, các bên tranh chấp và Tòa án xét thấy hợp đồng nói trên bị vô hiệu hoặc chấp nhận yêu cầu hủy bỏ. Như vậy, khi giải quyết Tòa án có phải áp dụng Điều 34 của BLTTDS năm 2015 đưa những cơ quan đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ đó tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xem xét hủy giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho QSDĐ không?

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 (điểm d khoản 2 Điều 106, Điều 195) và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ (Điều 79), thì việc cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận QSDĐ trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực. Cho nên, khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển QSDĐ mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển QSDĐ vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận QSDĐ phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.

Tại tiểu mục 7, Mục IV Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của TANDTC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử hướng dẫn: Tranh chấp liên quan đến ranh giới đất (Ví dụ: cấp chồng lấn), một trong hai bên đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ lần đầu. TAND cấp huyện thụ lý, xem xét yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ. Theo Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và TTHC thì thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh. Nếu vậy thì nhiều vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện chuyển lên TAND tỉnh sẽ dẫn đến quá tải. Đối với trường hợp nêu trên, Tòa án xác định diện tích, ranh giới đất và đề nghị UBND điều chỉnh diện tích đất phù hợp với thực tế sử dụng mà không cần hủy Giấy chứng nhận QSDĐ. Do vậy, TAND cấp huyện giải quyết thì có phù hợp với Công văn số 64/TANDTC-PC hay không?

Theo đó, tại Điều 34 của BLTTDS năm 2015 quy định khi giải quyết tranh chấp về QSDĐ mà trong đó có việc cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đang tranh chấp không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của đương sự thì Tòa án phải xem xét giải quyết việc hủy giấy chứng nhận QSDĐ đó trong VADS và đưa cơ quan cấp giấy chứng nhận QSDĐ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tại khoản 4 Điều 32 của LTTHC năm 2015 quy định: TAND cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khiếu kiện QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Theo giải đáp tại Công văn số 64/TANDTC-PC, thì đối tượng hướng dẫn áp dụng là tranh chấp hợp đồng chuyển QSDĐ, còn đối tượng tranh chấp trong trường hợp nêu trên là tranh chấp QSDĐ. Đây là hai đối tượng tranh chấp khác nhau. Hơn nữa, pháp luật chỉ quy định thẩm quyền của Tòa án là hủy quyết định cá biệt hoặc bác yêu cầu khởi kiện của đương sự mà không quy định Tòa án có thẩm quyền đề nghị cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh quyết định. Do vậy, đối với tranh chấp liên quan đến ranh giới đất bị cấp Giấy chứng nhận QSDĐ chồng lấn, nếu thấy cần thiết phải xem xét việc hủy giấy chứng nhận QSDĐ thì thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh.

3.      Giải đáp nghiệp vụ của VKSNDTC để áp dụng thống nhất pháp luật trong hệ thống Viện kiểm sát

Theo Công văn số 70/VKSTC-V14 ngày 05/01/2018 của VKSNDTC giải đáp vướng mắc trong việc áp dụng BLTTDS hướng dẫn: “Trong VVDS có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện thì căn cứ vào quy định của LTTHC, thì Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết vụ án”. Như vậy, quan điểm của VKSNDTC đối với VVDS có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện, thì thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh. Hướng dẫn này cho thấy, việc xác định thẩm quyền được tính từ thời điểm đương sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt, chứ không bắt buộc Tòa án cấp huyện phải làm rõ quyết định cá biệt đó rõ ràng trái pháp luật, thì mới thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.

4.      Kết luận của TANDTC qua công tác kiểm tra chuyên môn nghiệp đối với Tòa án một số tỉnh

Tại tiểu mục 2, mục II, phần B Báo cáo số 15/BC-TA ngày 15/3/2019 của TANDTC về việc báo cáo tổng hợp những hạn chế, thiếu sót trong công tác chuyên môn nghiệp vụ năm 2018 của các Tòa án thông qua công tác kiểm tra, đã nêu ra sai sót của Tòa án địa phương đó là: “Có Tòa án thụ lý giải quyết vụ án không đúng thẩm quyền. Ví dụ: Đương sự khởi kiện VADS có liên quan đến việc yêu cầu hủy quyết định cá biệt là Giấy chứng nhận QSDĐ nhưng Tòa án cấp huyện vẫn thụ lý giải quyết. Đây là trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh. Có một số trường hợp đã chuyển hồ sơ về Tòa án cấp tỉnh để giải quyết nhưng Tòa án cấp tỉnh lại trả lại hồ sơ về cho Tòa án cấp huyện, vì cho rằng “chưa có căn cứ rõ ràng phải hủy quyết định cá biệt hay không” là không đúng.”

Như vậy, quan điểm của Đoàn kiểm tra TANDTC trong quá trình kiểm tra công tác chuyên môn, nghiệp vụ của một số Tòa án địa phương đã đồng quan điểm với hướng dẫn của VKSNDTC nêu trên. Kết luận này cho thấy, thời điểm xác định thẩm quyền được tính từ lúc người khởi kiện có yêu cầu khởi kiện VADS có liên quan đến việc yêu cầu hủy quyết định cá biệt do UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh và nếu Tòa án cấp huyện đã thụ lý vụ án thì không cần phải làm rõ là có căn cứ rõ ràng là quyết định cá biệt đó có trái pháp luật hay không.

Trên thực tiễn, một số VKSND cấp tỉnh đã căn cứ vào Công văn số 70/VKSTC-V14 và Báo cáo số 15/BC-ĐKT để ban hành văn bản chỉ đạo VKSND hai cấp của tỉnh, nếu TAND cấp huyện thụ lý giải quyết VADS có liên quan đến việc yêu cầu hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện mà TAND cấp huyện đó không chuyển hồ sơ cho TAND cấp tỉnh giải quyết, thì tại phiên tòa Kiểm sát viên chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, chứ không phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

5.      Nguyên tắc không thay đổi thẩm quyền của Tòa án

Nhiệm vụ của BLTTDS là giải quyết VVDS được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân… Trên cơ sở đó, Điều 34 của BLTTDS năm 2015 quy định khi giải quyết các VVDS, mà trong vụ việc đó có quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và nội dung của quyết định đó liên quan đến vụ việc Tòa án giải quyết thì Tòa án phải hủy quyết định đó để khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Quy định này tạo cơ sở cho Tòa án chủ động trong việc hủy quyết định cá biệt trái pháp luật có ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của đương sự, nhằm giải quyết vụ việc dân sự một cách chính xác, toàn diện.

Như vậy, mục đích của quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với việc xem xét hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức trong quá trình giải quyết VADS được thiết lập nhằm đảm bảo hiệu quả của pháp luật tố tụng dân sự trong giải quyết các tranh chấp được toàn diện và triệt để, tạo điều kiện để các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách đầy đủ và thuận lợi nhất, hạn chế việc đương sự phải chờ đợi kết quả giải quyết của một VADS trước, sau đó mới tiếp tục theo đuổi vụ kiện tiếp theo bằng một vụ án hành chính. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định trên của các Tòa án còn chưa có sự thống nhất, có Toà án cho rằng quyết định cá biệt là trái pháp luật và chuyển đơn khởi kiện hoặc chuyển hồ sơ vụ án lên Toà án cấp trên trực tiếp, còn Toà án cấp trên trực tiếp lại cho rằng chưa đủ căn cứ để xác định quyết định cá biệt là trái pháp luật nên chuyển lại cho Tòa án đã chuyển, dẫn đến vụ việc bị chuyển đi chuyển lại nhiều lần, không chỉ gây mất thời gian, hao tổn chi phí và bức xúc cho đương sự, mà còn là nguyên nhân dẫn đến vụ án bị kéo dài.

Chính vì những mục đích nêu trên, pháp luật tố tụng luôn có quy định về nguyên tắc không thay đổi thẩm quyền của Tòa án trong một số trường hợp nhất định. Theo đó, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 39 như sau: “Trường hợp VADS đã được Tòa án thụ lý và đang giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật này về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì phải được Tòa án đó tiếp tục giải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của đương sự”. Như vậy, quy định về không thay đổi thẩm quyền trong trường hợp này chỉ áp dụng khi quá trình giải quyết vụ án đương sự có thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch, nhưng không thực hiện nghĩa vụ thông báo địa chỉ mới cho các đương sự khác và Tòa án. Thời điểm không thay đổi thẩm quyền trong trường hợp này được tính từ khi Tòa án thụ lý vụ án ban đầu đúng thẩm quyền theo lãnh thổ.

Có vẻ như quy định trên là sự kế thừa từ tinh thần của quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 7 của Thông tư liên tịch số 01, đó là:

“3. Trường hợp khi TAND cấp tỉnh đã thụ lý VVDS nhưng trong quá trình giải quyết, thấy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật hoặc quyết định cá biệt thuộc thẩm quyền TAND cấp huyện theo quy định tại Điều 29 LTTHC, thì TAND cấp tỉnh vẫn tiếp tục giải quyết VVDS. 

Trường hợp khi TAND cấp tỉnh đã thụ lý VVDS nhưng trong quá trình giải quyết, đương sự rút yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật hoặc người ban hành quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật sửa đổi, hủy bỏ quyết định đó, thì TAND cấp tỉnh vẫn tiếp tục giải quyết VVDS.”

Như vậy, chỉ trong trường hợp Tòa án cấp huyện đã thụ lý VADS mà phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện, thì Tòa án cấp huyện phải chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án cấp tỉnh giải quyết. Quy định trên cho thấy, ranh giới về việc không thay đổi thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh được tính từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án. Theo đó, trường hợp khi Tòa án cấp tỉnh đã thụ lý vụ án nhưng trong quá trình giải quyết, thấy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật hoặc quyết định cá biệt thuộc thẩm quyền Tòa án cấp huyện theo quy định của LTTHC hoặc đương sự rút yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật hoặc người ban hành quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật sửa đổi, hủy bỏ quyết định đó, thì Tòa án cấp tỉnh vẫn tiếp tục giải quyết mà không chuyển hồ sơ về cho Tòa án cấp huyện giải quyết.

Tác giả cho rằng, quy định trên là tiến bộ, đảm bảo sự ổn định về thẩm quyền của Tòa án trong việc hủy quyết định cá biệt, hạn chế được việc các Tòa án chuyển hồ sơ vụ án lên xuống gây phiền hà cho người dân – đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu.

Khi các luật được Quốc hội thông qua thông thường đều có điều luật dành riêng cho quy định chuyển tiếp và có Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành các văn bản luật đó, trong đó Luật TTHC năm 2015 cũng không ngoại lệ. Theo đó, tại khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành LTTHC năm 2015 quy định: “Đối với những khiếu kiện QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện đã được TAND cấp huyện thụ lý giải quyết trước ngày 01/7/2016 thì Tòa án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho TAND cấp tỉnh giải quyết”. Theo đó, tại Mục 2 phần IV Giải đáp nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TAND tối cao hướng dẫn: “Trường hợp VVDS do TAND cấp huyện thụ lý trước ngày 01/7/2016 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới phát sinh yêu cầu hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện mà quyết định đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và phải hủy quyết định đó mới bảo đảm giải quyết đúng đắn VVDS thì căn cứ khoản 4 Điều 34 BLTTDS năm 2015, khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật TTHC năm 2015, TAND cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho TAND cấp tỉnh giải quyết. Nếu TAND cấp huyện đã chuyển hồ sơ vụ việc cho TAND cấp tỉnh và TAND cấp tỉnh đã thụ lý thì TAND cấp tỉnh tiếp tục giải quyết.” Như vậy, nguyên tắc không thay đổi thẩm quyền được tiếp tục ghi nhận trong Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội. Quy định này cho thấy, vẫn cho phép Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các vụ việc có liên quan đến hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện với điều kiện là vụ việc đó đã được Tòa án cấp huyện thụ lý trước ngày 1/7/2016. Hơn nữa, nếu Tòa án cấp huyện do không cập nhật kịp thời quy định nên đã lỡ chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án cấp tỉnh và do sơ ý nên Tòa án cấp tỉnh đã thụ lý vụ án, thì Tòa án cấp tỉnh không chuyển hồ sơ về cho Tòa án cấp huyện mà phải tiếp tục giải quyết. Có nghĩa là ranh giới của sự không thay đổi thẩm quyền được tính từ mốc thời gian BLTTDS năm 2015 và LTTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành (1/7/2016) và Tòa án cấp tỉnh đã thụ lý vụ án.

Có thể lý giải cho nguyên nhân của việc các giải đáp của TANDTC cho phép Tòa án cấp huyện vẫn thụ lý, xem xét giải quyết vụ án có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện. Nếu trường hợp có căn cứ xác định quyết định cá biệt đó trái pháp luật mới bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tòa án cấp huyện đang thụ lý, giải quyết vụ án chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết. Nếu trường hợp có căn cứ xác định quyết định cá biệt đó đúng pháp luật, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và không phải hủy quyết định cá biệt đó thì Tòa án cấp huyện đang thụ lý, xem xét tiếp tục giải quyết vụ án. Đó là trong điều kiện hiện nay, các Tòa án cấp tỉnh đang bị áp lực lớn về công việc, để tránh việc chuyên quá nhiều vụ án hành chính lên Tòa án cấp tỉnh và phù hợp với các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sự quá tải và áp lực lớn về công việc hiện nay là tình hình chung của hầu hết các Tòa án chứ không chỉ riêng ở Tòa án cấp tỉnh.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!