CHA MẸ ĐƯƠNG NHIÊN LÀ NGƯỜI GIÁM HỘ CON CHƯA THÀNH NIÊN CÓ ĐÚNG KHÔNG?

Cha, mẹ đương nhiên là người giám hộ của con chưa thành niên có đúng không? Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt? Giám hộ có cần phải giám sát không?

1. Cha, mẹ đương nhiên là người giám hộ của con chưa thành niên có đúng không?

(1) Căn cứ Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau:

  • Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
  • Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
  • Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại hai trường hợp nêu trên.
  • Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

(2) Căn cứ Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám hộ như sau:

  • Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
  • Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.
  • Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.

(3) Căn cứ Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người được giám hộ như sau:

  • Người được giám hộ bao gồm:

+ Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;

+ Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;

+ Người mất năng lực hành vi dân sự;

+ Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

  • Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu.

Như vậy, trường hợp cha mẹ còn sống sẽ là người đại diện của con chưa thành niên chứ không phải người giám hộ. Chỉ khi người chưa thành niên không còn cha mẹ; cha và mẹ mất năng lực hành vi dân sự; cha và mẹ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con; hoặc không xác định được cha mẹ mới đặt ra vấn đề người giám hộ.

2. Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt?

(1) Căn cứ Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:

  • Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

  • Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.

(2) Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự

  • Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.

  • Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
  • Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Như vậy, từ căn cứ trên nếu trường hợp người đã đủ 18 tuổi nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn cần có người giám hộ.

3. Giám hộ có cần phải giám sát không?

Căn cứ Điều 51 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám sát việc giám hộ như sau:

  • Người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc giám hộ.

Việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó. Trường hợp giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ.

Người thân thích của người được giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người được giám hộ.

  • Trường hợp không có người thân thích của người được giám hộ hoặc những người thân thích không cử, chọn được người giám sát việc giám hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người giám hộ cử cá nhân hoặc pháp nhân giám sát việc giám hộ. Trường hợp có tranh chấp về việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ thì Tòa án quyết định.
  • Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát.
  • Người giám sát việc giám hộ có quyền và nghĩa vụ sau đây:

+ Theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ;

+ Xem xét, có ý kiến kịp thời bằng văn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự quy định tại Điều 59 của Bộ luật này;

+ Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ.

Như vậy theo quy định pháp luật người giám hộ vẫn phải có người giám sát để theo dõi, kiểm tra người giám hộ trong việc thực hiện giám hộ; Xem xét, có ý kiến kịp thời bằng văn bản về việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự quy định tại Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015; Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ.

Trên đây là những quy định pháp luật liên quan đến nội dung giám hộ và người giám hộ.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

PHÂN BIỆT PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT VÀ TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI

Phân biệt trường hợp phạm tội chưa đạt với hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội như thế nào? Như thế nào được coi là phạm tội chưa đạt theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành.

1. Thế nào là phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội?

Phạm tội chưa đạt theo Bộ luật Hình sự

Có 3 cấu thành tội phạm như sau: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội hoàn thành.

Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015 quy định phạm tội chưa đạt là việc người phạm tội có ý thực hiện hành vi tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng do nguyên nhân khác quan ngoài ý muốn.

Phạm tội chưa đạt thường có các đặc điểm sau:

  • Người phạm tội đã tiến hành các hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm
  • Người phạm tội không thực hiện được được tội phạm đến cùng
  • Nguyên nhân của trạng thái này là do nguyên nhân khách quan, nằm ngoài sự kiểm soát, ý thức chủ quan của người phạm tội.

Phạm tội chưa đạt có hai dạng như sau:

Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành (chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi): Người phạm tội vì những nguyên nhân khách quan mà chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, do đó, hậu quả của tội phạm đã không xảy ra.

Ví dụ: A cầm cây gỗ dài định đánh vào lưng B thì có người ngăn cản, A không thể thực hiện hành vi của mình. Hành vi này của A là hành vi phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.

Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Người phạm tội đã thực hiện được hết những hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng hậu quả đã không xảy ra do nguyên nhân ngoài ý muốn.

Ví dụ: A dùng cây kéo nhọn đâm nhiều lần vào ngực B để giết chết B sau đó thấy B bất tỉnh nên A đã bỏ đi. B được phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời nên không chết. Hành vi này của A là hành vi phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.

2. Người phạm tội chưa đạt sẽ bị xử lý hình sự như thế nào theo Bộ luật Hình sự

Căn cứ Khoản 1, Khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015 quy định quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt như sau:

  • Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
  • Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

3. Phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có điểm giống và khác nhau như sau:

Căn cứ Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

Một số điều kiện để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:

  • Việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải tự nguyện, dứt khoát
  • Việc chấm dứt thực hiện tội phạm xảy ra trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành
  • Không chịu tác động từ các điều kiện khách quan

* Giống nhau: Hành vi phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đều có kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra.

* Điểm khác nhau:

  • Về nguyên nhân:

+ Tội phạm chưa đạt: nguyên nhân dẫn đến tội phạm chưa đạt là do yếu tố khách quan làm cản trở hành vi phạm tội của người đó.

+ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có nguyên nhân là tự ý thức chủ quan của người có hành vi phạm tội. Người đó tự nguyện chấm dứt hành vi mà không phải do yếu tố khách quan tác động đến.

  • Về trách nhiệm hình sự:

+ Phạm tội chưa đạt: chịu TNHS về tội phạm chưa đạt

+ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội: được miễn TNHS hoặc nếu hành vi đủ yếu tố cấu thành nên tội khách thì sẽ bị truy cứu TNHS về tội đó.

4. Hậu quả của việc phạm tội chưa đạt? Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt

Hậu quả của phạm tội chưa đạt là phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.

Theo Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015, Khi quyết định hình phạt đối với hành vi này thì Tòa án sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, mức độ thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác trong vụ án dẫn đến việc người phạm tội không thể thực hiện được hành vi đến cùng.

Nguyên tắc của quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt là nếu điều luật được áp dụng có hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù có thời hạn không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì không quá 3/4 mức phạt tù quy định.

Đối với người phạm tội chưa đạt chưa đủ 18 tuổi thì quyết định hình phạt như sau:

  • Mức hình phạt cao nhất của người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là không quá 1/3 mức phạt quy định tại điều 100 và 101 Bộ luật Hình sự 2015;
  • Mức hình phạt cao nhất của người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là không quá 1/2 mức phạt quy định tại điều 99, điều 100 và 101 Bộ luật Hình sự 2015;

Trên đây là một số nội dung về phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

—————————–

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

MỘT HÀNH VI BỊ PHẠT HÀNH CHÍNH, CÓ CÒN BỊ XỬ LÝ HÌNH SỰ

 

1. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự

Căn cứ theo Điều 62 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 về Chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự.

Trong quá trình thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu hành vi vi phạm được phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì:

+ Người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó.

+ Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày tạm đình chỉ phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự.

Trong trường hợp đã thi hành xong quyết định xử phạt hành chính thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm xem xét, kết luận vụ việc và trả lời kết quả giải quyết bằng văn bản cho người có thẩm quyền đã chuyển hồ sơ trong thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Trường hợp không khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải trả hồ sơ vụ việc cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến.

Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020), nếu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự có quyết định khởi tố vụ án thì:

+ Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính

+ Chuyển toàn bộ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tài liệu về việc thi hành quyết định xử phạt cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự.

Việc chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự phải được thông báo bằng văn bản cho cá nhân, tổ chức vi phạm. (Theo Điều 62, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020))

2. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt hành chính

Đối với vụ việc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có một trong các quyết định như sau:

+ Quyết định không khởi tố vụ án hình sự

+ Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự

+ Quyết định đình chỉ điều tra

+ Quyết định đình chỉ vụ án

+ Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, miễn trách nhiệm, hình sự theo bản án

Nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm (nếu có) và văn bản đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định có hiệu lực.

Việc xử phạt vi phạm hành chính được căn cứ vào hồ sơ vụ vi phạm do cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1, Điều 63, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020) chuyển đến.

Trường hợp cần thiết phải xác minh thêm tình tiết để có căn cứ ra quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt có thể lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 59, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020).

Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 30 ngày, kể từ ngày nhận được các quyết định quy định tại khoản 1, Điều 63, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020) kèm theo hồ sơ vụ vi phạm.

Trong trường hợp cần xác minh thêm quy định tại khoản 2, Điều 63, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020) thì thời hạn tối đa không quá 45 ngày. (Theo Điều 63, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020)

Như vậy, trong trường hợp đang trong quá trình xem xét để ra quyết định xử phạt hành chính mà có yếu tố tội phạm thì người ra quyết định xử phạt hành chính phải chuyển hồ sơ qua cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự và ngược lại. Nếu không đủ yếu tố xử lý hình sự thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm sang người có thẩm quyền xử phạt hành chính. Trường hợp đã thi hành quyết định xử phạt hành chính mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án thì phải huỷ quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ra trước đó và chuyển hồ sơ theo quy định.

—————————–

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

02 QUY ĐỊNH MỚI CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI SỬA ĐỔI SẼ CÓ HIỆU LỰC TRONG NĂM 2024

Luật Đất đai mới dự kiến có hiệu lực từ 01/01/2025. Tuy nhiên có 02 quy định mới sẽ có hiệu lực từ tháng 01/04/2024. Cụ thể thế nào?

Lưu ý: Nội dung bài viết được căn cứ theo bản dự thảo Luật Đất đai sửa đổi mới nhất, bản 18/01/2024.

Luật Đất đai 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 5 vào sáng ngày 18/01/2024.

Về hiệu lực thi hành Điều 252 dự thảo Luật Đất đai 2024 quy định như sau:

“1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2025, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

2. Điều 190 và Điều 248 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 4 năm 2024.

3. Việc lập, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất được tiếp tục thực hiện theo quy định của Nghị quyết số 61/2022/QH15 ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Quốc hội về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021 – 2030.

Khoản 9 Điều 60 của Luật này có hiệu lực kể từ ngày Nghị quyết số 61/2022/QH15 hết hiệu lực thi hành.

4. Luật Đất đai số 45/2013/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 35/2018/QH14 (sau đây gọi là Luật số 45/2013/QH13) hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Có thể thấy, quy định tại Điều 190 và Điều 248 Luật Đất đai 2024 theo dự thảo sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2024.

Nội dung quy định của Điều 190 tại dự thảo Luật Đất đai 2024 mới nhất

Điều 190 dự thảo Luật Đất đai 2024 quy định về hoạt động lấn biển như sau:

Thứ nhất, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng vốn, kỹ thuật, công nghệ thực hiện các hoạt động lấn biển; có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho nhà đầu tư thực hiện hoạt động lấn biển theo quy định của pháp luật.

– Hoạt động lấn biển phải tuân thủ các nguyên tắc sau như:

+ Bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia trên biển; phù hợp với quy định của luật khác có liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;

+ Dựa trên cơ sở đánh giá đầy đủ về kinh tế, xã hội, môi trường, bảo đảm phát triển bền vững, đa dạng sinh học, các yếu tố tự nhiên, tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng;

+ Phù hợp với quy hoạch tỉnh hoặc quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch đô thị;

+ Khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên biển; bảo đảm hài hòa lợi ích của tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động lấn biển và tổ chức, cá nhân khác có liên quan; bảo đảm quyền tiếp cận với biển của người dân, cộng đồng;

+ Hoạt động lấn biển phải được lập thành dự án đầu tư hoặc hạng mục của dự án đầu tư theo quy định của pháp luật….

– Khu vực biển được xác định để thực hiện hoạt động lấn biển trong quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt và dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư thì việc quản lý, sử dụng khu vực biển để thực hiện hoạt động lấn biển như đối với đất đai trên đất liền.

Điều luật này cũng quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động lấn biển.

Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý, giao đất, cho thuê đất lấn biển và thanh tra, kiểm tra hoạt động lấn biển và quản lý, sử dụng khu vực lấn biển trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

Bộ Tài nguyên và Môi trường giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động lấn biển; thanh tra, kiểm tra hoạt động lấn biển…

– Việc giao khu vực biển để thực hiện hoạt động lấn biển được tiến hành đồng thời với việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư.

Nội dung quy định tại Điều 248 dự thảo Luật Đất đai

Điều 248 dự thảo Luật Đất đai 2024 quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lâm nghiệp 2017. Một vài sửa đổi như sau:

(1) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 2 Điều 14 về nguyên tắc giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, thu hồi rừng

– Phù hợp với quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia hoặc quy hoạch tỉnh hoặc quy hoạch sử dụng đất cấp huyện.

– Không chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác, trừ các dự án sau đây: dự án quan trọng quốc gia; dự án phục vụ quốc phòng, an ninh; dự án cấp thiết khác theo tiêu chí do Chính phủ quy định.”

(2) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 15 như sau:

–  Kế hoạch giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác của Ủy ban nhân dân cấp huyện được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt hoặc kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

(3) Bổ sung điểm đ vào sau điểm d khoản 2 Điều 16 về việc Nhà nước giao rừng phòng hộ không thu tiền sử dụng rừng cho các đối tượng như sau:

“đ) Ban quản lý rừng đặc dụng đối với rừng phòng hộ xen kẽ trong diện tích rừng đặc dụng.”.

(4) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 19 về điều kiện chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác như sau:

“1. Phù hợp với quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia hoặc quy hoạch tỉnh hoặc quy hoạch sử dụng đất cấp huyện.”.

(5)  Sửa đổi, bổ sung Điều 20 về thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác, trừ trường hợp thực hiện dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư, Luật đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Dầu khí.”.

Xem chi tiết, đầy đủ nội dung của Điều 190 và Điều 248 tại Dự thảo Luật Đất đai trình Quốc hội thông qua.

Trên đây là thông tin về 2 quy định mới của Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực trong năm 2024. 

—————————–

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CĂN CỨ XÁC ĐỊNH ĐỒNG PHẠM TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ

Xác định đồng phạm trong vụ án hình sự là yếu tố quan trọng trong trong việc thực hiện nguyên tắc không bỏ lọt tội phạm. Vậy đồng phạm là gì? Căn cứ xác định đồng phạm trong vụ án hình sự hiện nay.

Đồng phạm là gì?

Đồng phạm là một thuật ngữ được quy định trong pháp luật hình sự hiện hành. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung 2017, đồng phạm được quy định là trong một vụ án hình sự có từ 02 người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm.

Theo quy định hiện hành thì đồng phạm trong vụ án hình sự không nhất thiết phải là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội cùng với người phạm tội mà đồng phạm còn được xác định ở nhiều vai trò khác nhau. Bộ luật Hình sự hiện hành quy định đồng phạm bao gồm những người sau:

  • Người tổ chức: trong trường hợp này, đồng phạm với người phạm tội chính là người chủ mưu, là người chỉ huy và cầm đầu việc thực hiện tội phạm;
  • Người thực hành: đây là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội cùng với người phạm tội;
  • Người xúi giục: trong trường hợp này, đồng phạm không phải là người chủ mưu cũng không trực tiếp thực hiện tội phạm mà là người gây kích động, dụ dỗ và thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội;
  • Người giúp sức: trong trường hợp này thì đồng phạm chính là người tạo điều kiện cho người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đồng phạm có thể tại điều kiện về mặt tinh thần hoặc vật chất hoặc cả vật chất lẫn tinh thần cho người phạm tội.

Như vậy, trong một vụ án hình sự có đồng phạm thì đồng phạm được xác định là người có một trong 04 vai trò nêu trên. Tuy nhiên, pháp luật hình sự cũng quy định rõ đồng phạm sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội.

Các hình thức đồng phạm hiện nay

Hiện nay, đồng phạm được quy định rõ nhất tại Điều 17 Bộ luật Hình sự và điều luật này chỉ quy định về khái niệm đồng phạm và các loại đồng phạm mà không quy định về các hình thức đồng phạm.

Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, trong công tác thực tiễn ở lĩnh vực hình sự thì hầu hết mọi người đều đồng ý với việc phân chia các hình thức đồng phạm hiện nay thành 02 loại: đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.

Các căn cứ xác định đồng phạm trong vụ án hình sự hiện nay

Việc xem xét một vụ án hình sự có đồng phạm hay không được xác định thông qua các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm: dấu hiệu khách quan và dấu hiệu chủ quan. Cụ thể:

Dấu hiệu khách quan của đồng phạm:

  • Có từ 02 người trở lên cùng thực hiện hành vi phạm tội. Những người thực hiện hành vi phạm tội đều là những người có năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành;
  • Đồng phạm có sự liên kết với nhau trong việc thực hiện hành vi phạm tội;
  • Hậu quả mà tội phạm gây ra được xác định là hậu quả chung do tất cả những người đồng phạm trong vụ án gây ra.

​Dấu hiệu chủ quan của đồng phạm:

  • Vụ án hình sự có đồng phạm thường có tính chất nguy hiểm hơn so với vụ án hình sự không có đồng phạm;
  • Vụ án hình sự có đồng phạm thường xảy ra do lỗi cố ý.

Như vậy, khi xác định một vụ án hình sự có đồng phạm hay không thì cơ quan có thẩm quyền thường xem xét các dấu hiệu pháp lý trên.

Tuy nhiên, trong khoa học hình sự thì một số hành vi có liên quan đến tội phạm nhưng không được xác định là đồng phạm do không thoả mãn dấu hiệu của đồng phạm như: Hành vi che giấu tội phạm và hành vi không tố giác tội phạm.

Các hành vi này tuy không được xác định là đồng phạm nhưng được quy định là hai tội độc lập trong Bộ luật Hình sự do có tính chất nguy hiểm lớn cho xã hội.

Toà án quyết định hình phạt trong trường hợp có đồng phạm như thế nào?

Theo nguyên tắc thì đồng phạm được xác định là trường hợp có từ 02 người trở lên cùng thực hiện hành vi phạm tội nên đều cùng phải chịu trách nhiệm hình sự chung về một tội mà họ đã thực hiện.

Bên cạnh đó, mỗi đồng phạm trong vụ án hình sự đều phải độc lập trong việc chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình, người đồng phạm sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về nội dung vượt quá của người đồng phạm khác trong vụ án hình sự.

Tại Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng đã quy định về nguyên tắc xét xử vụ án hình sự có đồng phạm.

Theo quy định này thì Toà án có thể xem xét đến tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng đồng phạm để quyết định hình phạm cho những người đồng phạm.

Người đồng phạm nào có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự nào thì sẽ được áp dụng tình tiết đó trong việc xem xét để quyết định hình phạt của Toà án.

—————————–

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!