BỊ KẾT ÁN TỬ HÌNH, AI SẼ LÀ NGƯỜI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CHO NẠN NHÂN

Có phải bồi thường dân sự trong vụ án hình sự?

Theo Khoản 1, Điều 584, Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

Theo đó, người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

Do đó, trong vụ án hình sự mà người phạm tội có gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự nếu xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bị hại. Đây là vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và là trách nhiệm của chính người gây ra thiệt hại.

Thân nhân của người bị kết án tử có phải bồi thường thay

Trong trường hợp người phạm tội không tự nguyện bồi thường hoặc không có điều kiện để bồi thường thì người thân của người phạm tội không có nghĩa vụ bồi thường thay cho người phạm tội.

Tuy nhiên, việc người thân tự nguyện bồi thường thay một phần hoặc toàn bộ thiệt hại cho bị hại để bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định điểm a, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015

  • Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm.
  • Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả.

Trường hợp phải đối mặt án tử hình mà người thân hoặc phạm nhân tự nguyện hối lỗi, thành khẩn khai báo và khắc phục hậu quả, bồi thường thỏa đáng cho người bị hại thì có thể nhận được sự khoan hồng của Nhà nước.

Trường hợp người bị kết án tử hình, ai sẽ là người bồi thường thiệt hại cho nạn nhân

Trong trường hợp bị kết án tử hình, người phạm tội vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Việc bồi thường được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014.

Theo đó, người phải thi hành án có thời hạn 10 ngày (kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án) để tự nguyện thi hành án (theo khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự năm 2008; khoản 19 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014).

Trường hợp hết thời hạn này, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế (khoản 1, Điều 46 Luật Thi hành án dân sự năm 2008).

Các biện pháp cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 để thực hiện việc bồi thường dân sự bao gồm:

  1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án.
  2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
  3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ.
  4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
  5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
  6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định (theo Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008).

Như vậy, khi bị kết án tử hình thì người phạm tội vẫn là người phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bị bị hại, người thân không có nghĩa vụ bồi thường thay cho người phạm tội trừ trường hợp tự nguyện. Nếu người phạm tội không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

QUY ĐỊNH VỀ HỦY BỎ, THAY ĐỔI BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Biện pháp ngăn chặn là gì?

Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là biện pháp cưỡng chế do cơ quan quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị buộc tội nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa người bị buộc tội tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạo ra điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền con người, quyền công dân, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng khi có các căn cứ theo quy định của pháp luật. Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, căn cứ thực tế từng trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn luôn thay đổi. Vì vậy, khi căn cứ để áp dụng một biện pháp ngăn chặn cụ thể không còn thì cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn.

Các biện pháp ngăn chăn trong Bộ luật Tố tụng Dân sự bao gồm 8 biện pháp như sau:

  • Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110);
  • Biện pháp bắt người được áp dụng trong các trường hợp bắt người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can để tạm giam, bắt bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ (các điều 111, 112, 113);
  • Biện pháp tạm giữ; biện pháp tạm giam (các điều 117, 119);
  • Biện pháp bảo lĩnh (Điều 121);
  • Biện pháp đặt tiền để bảo đảm (Điều 122);
  • Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 123);
  • Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124).

Các trường hợp hủy bỏ biện pháp ngăn chặn

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng đối với người bị buộc tội và không được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác khi có một trong các quy định sau:

Quyết định không khởi tố vụ án hình sự:

Biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (gọi là giai đoạn tiền khởi tố). Biện pháp ngăn chặn mà người bị áp dụng trong giai đoạn này là có thể là biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Đối tượng bị áp dụng phải là người chưa bị khởi tố mà có cơ sở nghi vấn buộc tội, nhưng sau đó khi có quyết định không khởi tố vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định hủy biện pháp ngăn chặn này.

Trong các giai đoạn tố tụng như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nếu có những căn cứ không cho phép tiếp tục tiến hành tố tụng mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định, vụ án sẽ không được khởi tố hoặc phải bị đình chỉ hoặc bị cáo được toà án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.

Quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án:

Trường hợp này được hiểu là vụ án phải được chấm dứt các hoạt động tố tụng. biện pháp ngăn chặn (tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh) nếu đang được áp dụng đối với bị can, bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định hủy biện pháp ngăn chặn ngay.

Quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can:

Về cơ bản nội dung giống như trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Nhưng có điểm khác biệt là hoạt động tố tụng đối với bị can được đình chỉ phải chấm dứt, biện pháp ngăn chặn đối với bị can được đình chỉ phải được hủy bỏ ngay. Còn các bị can khác trong vụ án vẫn tiến hành tố tụng và áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ:

Thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thuộc về Tòa án và đối tượng áp dụng là bị cáo, người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử nhưng phải được Hội đồng xét xử tuyên bằng bản án là không phạm tội như Viện kiểm sát truy tố, hoặc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thì biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ ngay.

Trường hợp xét thấy không cần thiết. (khoản 2 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015)

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.

Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định; trong thời hạn 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp tạm giữ do Viện kiểm sát phê chuẩn, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp ngặn chặn này phải thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn khác.

Thay thế biện pháp ngăn chặn

Thay thế biện pháp ngăn chặn là việc cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay cho biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng.

Khi thay thế biện pháp ngăn chặn, người bị thay thế biện pháp ngăn chặn có thể bị đặt vào tình thế bất lợi hay có lợi hơn tuỳ thuộc vào việc họ sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nào thay cho biện pháp đang bị áp dụng. Khi quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn phải căn cứ vào yêu cầu của việc giải quyết vụ án, thái độ chấp hành pháp luật của người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng bằng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hoặc nghiêm khắc hơn.

Việc huỷ bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án quyết định tùy theo từng giai đoạn tố tụng. Đối với những biện pháp ngăn chặn do viện kiểm sát phê chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế phải do chính viện kiểm sát quyết định

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

TỘI LỢI DỤNG CÁC QUYỀN TỰ DO DÂN CHỦ XÂM PHẠM LỢI ÍCH CỦA NHÀ NƯỚC, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN

Căn cứ theo Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,cá nhân  như sau:

1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Như vậy, đối với tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì mức phạt tù cao nhất lên đến 07 năm.

Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là gì?

1. Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là hành vi lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do, dân chút khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

2. Các yếu tố cấu thành tội lợi dụng các quyền tự do dân chút xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Về mặt khách thể

Tội phạm này xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thông qua việc lợi dụng các quyền tự do dân chủ của mình do Hiến pháp quy định.

Về mặt khách quan

Người phạm tội có hành vi lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tội giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Các quyền tự do, dân chủ nêu trên là những quyền cơ bản của con người được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Đa số mọi công dân đều sử dụng các quyền này để bảo vệ lợi ích của mình nhưng không xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân khác.

Tuy nhiên, cũng có người vì động cơ cá nhân hay những động cơ khác đã “lợi dụng” các quyền đó để xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân khác. Có thể người phạm tội viết báo để đả kích cơ quan Nhà nước, tung tin không có thật gây hoang mang trong nhân dân, khiếu nại, tố cáo,…gây mất uy tín cho cán bộ công chức,…

Điều luật không quy định “xâm phạm” là như thế nào và ở mức độ nào thì mới cấu thành tội phạm. Việc đánh giá trong những trường hợp cụ thể sẽ là cần thiết. – Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội có một trong những hành vi trên và xâm hại đến lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Cần phải có hướng dẫn cụ thể thế nào là “lợi dụng quyền tự do dân chủ” trong quá trình triển khai áp dụng, từ đó tránh ngăn chặn sự tuỳ tiện từ phía các cơ quan chức năng, xâm hại đến quyền tự do dân chủ của cá nhân.  Bởi cấu thành của tội này rất định tính, các quyền tự do dân chủ của cá nhân có thể bị xâm hại bất cứ lúc nào, đặc biệt trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta chủ trương tăng cường dân chủ và phản biện xã hội trong hoạt động quản lý nhà nước.

Tội phạm này cần phân biệt với tội vu khống (Điều 156). Ở tội vu khống, người phạm tội nhận thức được tin mà mình loan truyền là bịa đặt, không có thật và nhằm xâm phạm đanh dự, nhân phẩm của đối tượng cụ thể. Trong tội phạm này, người phạm tội không biết tin mình loan truyền là sai sự thật (có thể sai sự thật nhưng người phạm tội không biết), những thông tin không được công khai, thuộc bí mật Nhà nước, tuy nhiên người phạm tội đã loan truyền ra ngoài.

Về mặt chủ quan

Là lỗi cố ý (trực hoặc gián tiếp).  Động cơ, mục đích không là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Vì thế, nếu hành vi này kèm theo mục đích “chống chính quyền nhân dân” thì phải bị truy cứu về tội phạm tương ứng.

Về mặt chủ thể

Bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định.

3. Hình phạt

– Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

– Nếu tội phạm này gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

QUY ĐỊNH VỀ SA THẢI NGƯỜI LAO ĐỘNG

Người lao động bị sa thải trong trường hợp nào?

Theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Lao động 2019 thì người lao động sẽ bị sa thải khi thuộc các trường hợp sau:

– Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc;

– Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động;

– Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật. Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 126 của Bộ luật này;

– Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

Trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.

Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Tại khoản 8 Điều 34 Bộ luật lao động 2019 quy định:

“Điều 34. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động…

8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải….”

Như vậy khi bạn bị công ty kỷ luật sa thải, hợp đồng lao động giữa bạn và công ty sẽ bị chấm dứt.

Căn cứ theo Điều 41 Bộ luật lao động 2019 quy định thì NSDLĐ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật phải có các nghĩa vụ sau:

 – Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

 Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.

 Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật lao động 2019 thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.

– Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động 2019 người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật lao động 2019 để chấm dứt hợp đồng lao động.

– Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động 2019 và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật lao động 2019, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động. 

Như vậy, khi chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều 41 Bộ luật lao động 2019 và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật lao động 2019, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

Bị công ty sa thải có được hưởng chế độ thai sản?

Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định về điều kiện hưởng chế độ thai sản như sau:

Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Lao động nữ mang thai;

b) Lao động nữ sinh con;

c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;

e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

3. Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

4. Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều 39 của Luật này.

Như vậy, điều kiện để hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ theo quy định của luật là trong khoảng thời gian 12 tháng trước khi sinh bạn có đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên hay không hoặc trong trường hợp bạn đã đóng đủ bảo hiểm từ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám chữa bệnh thì bạn phải đóng bảo hiểm từ đủ 3 tháng trở lên trong khoảng thời gian 12 tháng trước khi sinh thì kể cả khi bạn đã chấm dứt hợp đồng lao động với công ty thì bạn vẫn được hưởng chế đột hai sản theo quy định của luật.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI BỊ HẠI TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định tư cách người tham gia tố tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự và các quy định pháp luật có liên quan; việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ án hình sự không được toàn diện, triệt để.

Người bị hại là gì?

Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS năm 2015) về bị hại thì “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.

Đặc điểm của bị hại:

Theo như quy định của BLTTH năm 2015 bị hại có các đặc điểm sau đây:

  • Thứ nhất, về chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức. Trường hợp bị hại là cá nhân. Cá nhân này có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài… nhưng phải là người đang còn sống. Điều này có nghĩa là người chưa được sinh ra (thai nhi), hoặc người đã chết thì không được coi là bị hại. Vì vậy, Người đã chết do tội phạm cũng không được coi là bị hại.

Trường hợp bị hại là cơ quan, tổ chức. Đây là một quan điểm mới của BLHS 2015 và BLTTHS 2015, trước đây pháp luật chỉ thừa nhận bị hại là cá nhân. Cơ quan, tổ chức được coi là bị hại có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân, tuy nhiên cơ quan, tổ chức được coi là bị hại phải được thành lập hợp pháp, và đang hoạt động, tồn tại tại thời điểm tội phạm xảy ra. Tương tự như đặc điểm thứ nhất, cơ quan, tổ chức không còn tồn tại, hoặc đã giải thể… thì không được coi là bị hại

  • Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp. Đối với những tội phạm xâm phạm về tinh thần, uy tín của bị hại thì đa số đều là “tội cấu thành hình thức, nghĩa là chỉ cần thực hiện hành vi xâm phạm đến danh dự, uy tín của bị hại thì đã đủ điều kiện để cấu thành tội phạm.
  • Thứ ba, thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
  • Thứ tư, công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.

Quyền và nghĩa vụ của bị hại theo Bộ luật tố tụng hình sự

Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 2015 bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền:

“a) Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

b) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

c) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

d) Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;

đ) Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;

e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

g) Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;

h) Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;

i) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;

k) Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;

l) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;

m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.

Bị hại có nghĩa vụ:

a) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;

b) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.”

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về bị hại góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, tuy nhiên trong thực tiễn việc xác định chính xác bị hại cần nghiên cứu kỹ để tránh xác định sai tư cách tham gia tố tụng.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!