DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ

Di sản dùng vào việc thờ cúng là di sản không chia và giao cho người được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng. Pháp luật quy định như thế nào về việc để lại di sản thờ cúng?

Điều 645 BLDS 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau:

  • Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
  • Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
  • Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Theo quy định trên, trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế. Mặc dù cá nhân được quyền định đoạt tài sản của mình dùng vào việc thờ cúng sau khi chết, tuy nhiên việc định đoạt này không hoàn toàn tự do. Cụ thể, quy định pháp luật hiện hành chỉ cho phép cá nhân được định đoạt một phần tài sản của mình dùng vào việc thờ cúng.

Di sản dùng vào việc thờ cúng được để lại theo ý nguyện của người lập di chúc, di sản này không chia mà được giao cho một người quản lý. Người quản lý không được sử dụng vào mục đích của riêng mình, không có quyền định đoạt di sản này. Trường hợp người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà không có điều kiện để tiếp tục quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thỏa thuận giao cho người khác quản lý.

  • Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

Những vấn đề cần làm rõ trong di sản dùng vào việc thờ cúng, như sau:

Thứ nhất, người lập di chúc muốn dành một phần làm di sản thờ cúng thì phần di sản đó giao cho người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận giao cho một người quản lý.

Vậy, một phần di sản là như thế nào? Nếu người lập di chúc định đoạt vượt quá một phần di sản thì di chúc có giá trị hay không?

Theo quy định, toàn bộ tài sản của người chết là một khối di sản, một phần của một khối di sản đó; nếu chia di sản ra làm hai hay nhiều phần thì người lập di chúc không được dành lại quá một phần của khối di sản đó. Do vậy, nếu người lập di chúc định đoạt vượt quá 1/2 di sản, khi mở thừa kế sẽ để lại 1/2 di sản để thờ cúng, phần còn lại chia theo di chúc hay chia theo pháp luật.

Thứ hai, tại Khoản 1 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“…Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đã chết thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.

Trong trường hợp người quản lý quyền sử dụng đất dùng vào việc thờ cúng không phải là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản mà những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì quyền sử dụng đất dùng vào việc thờ cúng cũng không thuộc sở hữu của người đang quản lý, vậy nó thuộc về ai?

Đặc biệt, trong vấn đề quyền sử dụng đất dùng vào việc thờ cúng, khi nào quyền sử dụng dùng cho việc thờ cúng sẽ chấm dứt? Khi nào thì quyền sử dụng đất đó tiếp tục được tham gia vào giao dịch dân sự?

Tại Khoản 2 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó, thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”.

Quy định này nhằm bảo vệ người có quyền lợi trong quan hệ dân sự với người để lại di chúc, khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết để lại, thì phải dùng phần di sản dùng vào việc thờ cúng thực hiện nghĩa vụ đó.

Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định về tính chất của di sản dùng vào việc thờ cúng, mà chỉ định lượng phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Người lập di chúc có thể định đoạt bất kì tài sản nào trong khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình dùng vào việc thờ cúng. Vì vậy, trong thực tế có trường hợp người để lại di sản vừa dành một phần di sản cho thờ cúng, vừa dành một phần di sản để di tặng. Thực tế nghĩa vụ, di sản còn lại không đủ để thanh toán thì sẽ dùng di sản thờ cúng để thanh toán nghĩa vụ hay dùng di sản dùng cho di tặng để thanh toán. 

Tóm lại, việc để lại di sản thừa kế dùng cho việc thờ cúng được thực hiện theo ý chí của người lập di chúc. Phần di sản này không được chia thừa kế nên không được phép bán phần di sản này trừ trường hợp để thanh toán nghĩa vụ do người chết để lại mà toàn bộ di sản không đủ để thực hiện.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn thiếu các hướng dẫn của pháp luật về vấn đề này gây khó khăn cho người để, người nhận quyền sử dụng đất thờ cúng cũng như giải quyết những gặp mâu thuẫn liên quan đến di sản dùng vào việc thờ cúng.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

THỜI HẠN GIÁM ĐỐC THẨM BẢN ÁN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

Tranh chấp đất đai là một trong những tranh chấp phức tạp và khó giải quyết nhất. Vậy, thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai là bao lâu? Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là gì?

Thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai là bao lâu?

Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, quyền của giám đốc thẩm được hợp pháp hóa để xem xét lại bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì phát hiện vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.

Giám đốc thẩm vụ án dân sự không là thủ tục xét xử theo quy định của pháp luật về tố tụng. Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án/quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

Vụ án tranh chấp đất đai cũng là vụ án dân sự, do vậy, cũng tuân thủ quy định về thời hạn thực hiện giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 327 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, cụ thể như sau:

  • Thời hạn để đương sự của vụ án dân sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) thực hiện đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm tới người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm: 01 năm, kể từ ngày bản án/quyết định có hiệu lực mà phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án/quyết định;
  • Thời hạn Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác gửi thông báo tới người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: Không quy định thời hạn;
  • Thời hạn Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: Không quy định thời hạn;

Khi đương sự phát hiện bản án/quyết định của tòa án đã có hiệu lực mà vi phạm pháp luật thì bị áp dụng thời hiệu để thực hiện quyền đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tiến hành kháng nghị.

Những cơ quan, cá nhân khác không có quy định cụ thể về thời hạn về việc thông báo hoặc đề nghị người có thẩm quyền thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Điều này có nghĩa là không có quy định cụ thể về thời hạn để đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm trong vụ án tranh chấp đất đai. Mọi quy định về thời hạn giám đốc thẩm đều phụ thuộc vào căn cứ pháp luật và quyền hạn của người có thẩm quyền kháng nghị.

Như vậy, pháp luật không quy định thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai.

Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Thủ tục giám đốc thẩm được tiến hành trên cơ sở kết quả của công tác giám đốc việc xét xử. Để đề cao trách nhiệm của những người có thẩm quyền trong việc tổ chức kiểm sát, giám đốc việc xét xử và tránh việc yêu cầu xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật một cách tràn lan, làm mất tính ổn định của bản án, quyết định thì chỉ những người đó mới có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật yêu cầu tòa án có thẩm quyền xét xử lại.

Đương sự và những người khác chỉ có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc thông báo cho những người có thẩm quyền kháng nghị về những sai lầm, vi phạm pháp luật của tòa án đã giải quyết vụ án để những người này xem xét kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đối với tòa án, viện kiểm sát, trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì cũng phải thông báo bằng văn bản cho những người có thẩm quyền kháng nghị để những người này xem xét kháng nghị bản án, quyết định đó.

Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 331 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo quy định này thì chỉ có chánh án tòa án nhân dân cấp cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong đó, việc phân cấp thẩm quyền kháng nghị được thực hiện như sau:

  • Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao;
  • Chánh án tòa án nhân dân cấp cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp cào có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án nhân dân cấp tỉnh, tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Việc phân cấp thẩm quyền kháng nghị được quy định trong pháp luật chỉ mang nghĩa tương đối. Trên thực tế Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ yếu chỉ tiến hành kháng nghị đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân cấp cao trong trường hợp phát hiện được sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.

Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật phát hiện thấy sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại các điều 213, 313, 324, 349, … Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì các bản án, quyết định này bao gồm:

  • Bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
  • Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự;
  • Bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm;
  • Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của tòa án.

Nói chung đối với tất cả các bản án, quyết định đã có hiệu pháp luật đều có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu phát hiện được sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Tuy vậy, đối với quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao thì không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vì Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì dù có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án cũng không phải là đổi tượng của quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai là gì?

Căn cứ Điều 326 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, có 3 căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án/quyết định tranh chấp đất đai là:

Căn cứ thứ nhất là kết luận trong bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Kết luận của tòa án trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng có nghĩa là tòa án giải quyết’ vụ án không đúng với bản chất của sự việc. Để bảo đảm công bằng, công lí trong xét xử thì bản án, quyết định của tòa án đã có I hiệu lực pháp luật đã căn cứ vào kết luận này để giải quyết vụ án phải được xét lại.

Căn cứ thứ hai là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm đương sự không thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình và hậu quả là quyền, lợi ích hợp pháp không được bảo vệ theo quy định pháp luật.

Để giải quyết đúng vụ án dân sự, tòa án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng ưong việc giải quyết vụ án, bảo đảm cho các đương sự thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Mọi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng đều có thể dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được xét lại nếu có vi phạm trong thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng.

Căn cứ thứ ba là có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, hậu quả khiến bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại quyền lợi hợp pháp của đương sự, xâm phạm tới lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc quyền lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là việc tòa án đã áp dụng sai các quy định của pháp luật vào việc giải quyết vụ án. Việc áp dụng sai các quy phạm pháp luật sẽ dẫn đến hậu quả tòa án quyết định sai quyền, nghĩa vụ của các đương sự, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đên lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba vì thế phải xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án.

Kèm theo văn bản/đơn đề nghị giám đốc thẩm, cần phải có bản án, tài liệu chứng minh việc kháng nghị là có căn cứ.

Người có thẩm quyền kháng nghị thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám Những căn cứ này đề cập đến các trường hợp cụ thể mà đương sự có thể dùng để kháng nghị giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định tranh chấp đất đai. 

Như vậy, pháp luật hiện hành không quy định về thời hạn giám đốc thẩm bản án tranh chấp đất đai đối với người có thẩm quyền thực hiện kháng nghị.

———————————

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Cưỡng đoạt tài sản là gì? Phạm tội cưỡng đoạt tài sản sẽ bị phạt tù hay phạt tiền?

Cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

1. Các dấu hiệu cơ bản của tội phạm cưỡng đoạt tài sản như sau:

Về chủ thể của tội phạm:

  • Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 là bất kỳ người nào có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự:

+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên (phạm tội thuộc khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015);

+ Người từ đủ 14 tuổi trở lên đối với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Về khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và quan hệ nhân thân. Xâm phạm về quan hệ nhân thân trong trường hợp này không phải là những thiệt hại về thể chất như tính mạng, thương tật, mà chỉ là đe dọa tinh thần làm cho người bị cưỡng đoạt phải giao tài sản.

Về mặt khách quan của tội phạm:

Về hành vi: đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

+ Hành vi đe dọa dùng vũ lực: Người phạm tội thể hiện thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói làm cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản.

+ Hành vi dùng thủ đoạn khác: là hành vi đe dọa sẽ làm một hoặc nhiều việc gây thiệt hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt của người phạm tội.

Hậu quả:

Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi trên chứ không phụ thuộc vào việc có chiếm đoạt được tài sản hay không.

Về mặt chủ quan của tội phạm:

+ Lỗi: tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. 

+ Mục đích: chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.

2. Khung hình phạt đối với Tội cưỡng đoạt tài sản

Người nào có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khung hình phạt quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự như sau:

Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm

Người nào đe đọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm

Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Có tổ chức;
  • Có tính chất chuyên nghiệp;
  • Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
  • Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  • Tái phạm nguy hiểm.

Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm

Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
  • Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm

Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
  • Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Hình phạt bổ sung: 

Người phạm tội cưỡng đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Như vậy, khung hình phạt cao nhất đối với tội cưỡng đoạt tài sản có thể lên đến 20 năm tù, ngoài ra người phạm tội còn có thể phải chịu thêm các hình phạt bổ sung.

Phạt hành chính đối với hành vi cưỡng đoạt tài sản

Trong trường hợp người có hành vi cưỡng đoạt tài sản nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ có thể bị phạt hành chính (phạt tiền) từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Ngoài ra, người có hành vi vi phạm trên còn bị buộc trả lại tài sản do chiếm giữ trái phép (theo quy định tại Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP).

3. Đồng phạm tội cưỡng đoạt tài sản

Đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản là trường hợp phạm tội do nhiều người cùng tham gia thực hiện, có tính nguy hiểm cao cho xã hội, được thực hiện với hình thức lỗi cố ý trái quy định của pháp luật hình sự.

Đồng phạm trong đội tưởng đoạt tài sản được quy định với mục đích xác định là một hình thức phạm tội trong tội cưỡng đoạt tài sản, phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt của những người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản. Những người đồng phạm trong tội cưỡng đoạt tài sản đều có chung hình thức lỗi là lỗi cố ý trong mặt chủ quan của tội phạm.

  • Những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà chúng cùng thực hiện;
  • Khi xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm cần tuân thủ nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc đã cùng thực hiện tội phạm.

Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác mà trước đó không có sự bàn bạc và thống nhất với nhau cũng như không có sự tiếp nhận mục đích của nhau. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự…được áp dụng riêng đối với từng người phạm tội.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!