ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Đình chỉ vụ án hình sự là gì? Căn cứ đình chỉ vụ án? Hậu quả của việc đình chỉ vụ án hình sự?

Đình chỉ vụ án hình sự là gì?

Đình chỉ vụ án hình sự là việc chấm dứt hoạt động tố tụng đối với toàn bộ vụ án hoặc đối với từng bị can khi có những căn cứ do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.

Việc đình chỉ vụ án hình sự phải dựa vào những căn cứ, thẩm quyền và trình tự thủ tục được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào những căn cứ đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự chứ không thể tùy nghi áp dụng các căn cứ để ra quyết định đình chỉ vụ án được. Đồng thời, việc đình chỉ vụ án phải do người có thẩm quyền ra quyết định theo trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ để đình chỉ vụ án hình sự

Giai đoạn truy tố

Tại giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ sau:

  • Vụ án thuộc trường hợp chỉ được khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại điện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết đã yêu cầu nhưng đã rút yêu cầu, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức theo quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
  • Vụ án đã được khởi tố, điều tra nhưng quá trình điều tra đã xác định được vụ án đó thuộc trường hợp không được khởi tố vì có căn cứ quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:

+ Không có sự việc phạm tội;

+ Hành vi không cấu thành tội phạm;

+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;

+ Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

+ Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;

+ Tội phạm đã được đại xá;

+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;

+ Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

  • Khi có căn cứ cho rằng người phạm tội đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Theo đó, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Trong trường hợp này, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội mà họ định phạm; còn nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ các yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
  • Khi có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 Bộ luật hình sự như sau:

+ Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hộ nữa.

+ Khi có quyết định đại xá.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường hợp:

+ Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

+ Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.

+ Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

  • Khi có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật hình sư 2015: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp theo quy định:

+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật hình sự.

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật hình sự.

+ Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Như vậy, trong giai đoạn truy tố này khi Viện kiểm sát xét thấy có căn cứ như vụ án đã khởi tố, khởi tố bị can nhưng đã được rút yêu cầu hoặc trong quá trình điểu tra xét thấy vụ án không thuộc vào trường hợp được khởi tố và khi có căn cứ miễn các trách nhiệm hình sự trong vụ án thì bắt buộc phải được đình chỉ vụ án.

Giai đoạn xét xử

Tại giai đoạn xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

  • Vụ án thuộc trường hợp chỉ được khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại điện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết đã yêu cầu nhưng đã rút yêu cầu, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức theo quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
  • Vụ án đã được khởi tố, điều tra nhưng quá trình điều tra đã xác định được vụ án đó thuộc trường hợp không được khởi tố vì có căn cứ quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cụ thể:

+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;

+ Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

+ Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;

+ Tội phạm đã được đại xá;

+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;

+ Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.

  • Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.

Trên đây là cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành đình chỉ vụ án. Theo đó tương ứng với từng giai đoạn của quá trình tố tụng mà việc áp dụng các căn cứ phải đúng theo quy định của pháp luật.

Hậu quả của việc đình chỉ vụ án hình sự

Khi có quyết định đình chỉ vụ án hình sự, tất cả hoạt động tố tụng đối với toàn bộ vụ án, đối với bị can sẽ chấm dứt, cụ thể:

  • Hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với bị can: Đối với bị can đang bị tạm giam thì sẽ được trả tự do, đối với các biện pháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh cũng sẽ bị hủy bỏ, bị can không cần phải chấp hành nữa.
  • Hủy bỏ các biện pháp cưỡng chế, xử lý vật chứng, tài liệu đồ vật đã tạm giữ (nếu có).
  • Các vấn đề khác có liên quan và các nội dung quy định tại các văn bản tố tụng trước đó cũng bị hủy bỏ…

———————————

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TÀI SẢN THẾ CHẤP

Xử lý vật chứng là tài sản thế chấp trong vụ án hình sự được thực hiện như thế nào?

Vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội được quy định như thế nào?

Theo quy định tại Điều 89 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về vật chứng như sau:

Vật chứng

Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

Tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về xử lý vật chứng.

Xử lý vật chứng

2. Vật chứng được xử lý như sau:

a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;

b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy.

Mặt khác, theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.

Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm

1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với:

a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;

b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;

……

Như vậy, căn cứ theo các quy định trên, vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Khi vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội thì vật chứng sẽ được tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy.

Bên cạnh đó, tại khoản 1.1 Công văn 2160/VKSTC-V14 hướng dẫn vềmột số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Xử lý như thế nào đối với phương tiện, công cụ phạm tội trong 02 trường hợp: (1) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản của người phạm tội đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng; (2) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng?

Trả lời:

1.1. Theo quy định tại khoản 9 Điều 21 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: “Trường hợp tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ hoặc bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được xác định là không còn tài sản bảo đảm…”.

Và quy định tại khoản 3 Điều 49 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP nêu trên thì “Trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định tài sản đang dùng để bảo đảm phải xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác thì tài sản này được xử lý theo quy định đó”. Như vậy, trường hợp bị can sử dụng tài sản đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng vào việc phạm tội thì việc xử lý tài sản thực hiện theo quy định Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 tức là bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy. Quyền lợi của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng được giải quyết theo quy định về khởi kiện vụ án dân sự.

Như vậy thông qua các căn cứ trên, xử lý công cụ phương tiện phạm tội là tài sản của người phạm tội đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng thì quyền lợi của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng đối với công cụ phạm tội đang được thế chấp sẽ được giải quyết theo quy định về khởi kiện vụ án dân sự.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

KHI NÀO HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN BỊ VÔ HIỆU?

Hợp đồng vay tài sản là gì? Khi nào Hợp đồng vay tài sản vô hiệu?

Hợp đồng vay tài sản là gì?

Theo quy định tại Điều 463. Hợp đồng vay tài sản

Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Hợp đồng vay tài sản vô hiệu khi nào?

Hợp đồng vay tài sản cũng là một trong những hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự.

Theo quy định tại Điều 407 Bộ luật Dân sự 2015, căn cứ xác định giao dịch dân sự vô hiệu cũng được áp dụng đối với hợp đồng dân sự vô hiệu và dược quy định từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật Dân sự 2015.

Ví dụ như vô hiệu do không thỏa mãn điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, do vi phạm điều cấm của luật, do giả tạo, do người chưa có đủ năng lực hành vi dân sự thực hiện…

Hay, hợp đồng vay tài sản vô hiệu khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:

Một là, hợp đồng vay tài sản vô hiệu do không thỏa mãn điều kiện có hiệu lực của hợp đồng quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự.

Theo đó, hợp đồng vay tài sản vô hiệu do chủ thể không có đủ năng lực pháp luật, không có năng lực hành vi dân sự phù hợp hoặc không tự nguyện tham gia hoặc vi phạm về mục đích, nội dung của hợp đồng…

Hai là, hợp đồng vay tài sản vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Ví dụ như đối tượng của hợp đồng vay là ma túy, chất cấm…

Ba là, hợp đồng vay tài sản vô hiệu do giả tạo

Theo đó, các bên xác lập hợp đồng vay tài sản nhằm che giấu một hợp đồng khác.

Lúc này, hợp đồng vay tài sản vô hiệu còn hợp đồng bị che giấu có hiệu lực.

Ví dụ như, A vay B 100 triệu đồng theo hợp đồng vay nhưng chính xác thì 100 triệu này là số tiền lãi mà B phải trả A khi B thuê nhà xưởng của A theo hợp đồng thuê nhà xưởng.

Bốn là, chủ thể tham gia hợp đồng vay tài sản là người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự

Bao gồm là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người chưa thành niên hoặc là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Nếu một trong hai bên trong hợp đồng vay tài sản hoặc cả hai bên thuộc một trong số những đối tượng nêu trên thì hợp đồng do các bên xác lập bị vô hiệu.

Năm là, hợp đồng vay tài sản bị vô hiệu do bị nhầm lẫn

Trong trường hợp mục đích giao kết hợp đồng vay tài sản của các bên không giống nhau mà không có sự giải thích, thống nhất, làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì hợp đồng này vô hiệu theo Quyết định/bản án của tòa án.

Sáu là, hợp đồng vay tài sản bị vô hiệu do bị đe dọa, lừa dối, cưỡng ép

Nếu một trong hai bên tham gia hợp đồng vay tài sản mà do bên còn lại ép buộc, đe dọa, trái với ý chí, nguyện vọng của mình hoặc bị lừa tham gia thì họ có quyền yêu cầu tòa tuyên vô hiệu hợp đồng vay tài sản này.

Bảy là, hợp đồng vay tài sản vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi

Ví dụ, tại thời điểm giao kết hợp đồng mà bên giao kết sử dụng chất kích thần kinh dẫn đến không làm chủ được nhận thức của mình về vụ việc thì có quyền yêu cầu tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng này.

Như vậy, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, có một số trường hợp hợp đồng vay tài sản bị vô hiệu như đã nêu trên.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

THẾ NÀO ĐƯỢC COI LÀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG?

Phòng vệ chính đáng là gì? Khi nào được coi là phòng vệ chính đáng? Nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì có bị xử phạt không?

Phòng vệ chính đáng là gì?

Theo Khoản 1 Điều 22 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

Mục đích của Phòng vệ chính đáng là nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp đồng thời ngăn chặn hành vi tấn công bằng cách gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công. Khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải xem xét một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, trong đó đặc biệt là tâm lý, thái độ của người phòng vệ khi xảy ra sự việc, họ không có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn chính xác phương pháp, phương tiện thích hợp để chống trả, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ, chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi sự chống trả rõ ràng là quá đáng.

Điều kiện để được xem là phòng vệ chính đáng

Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi hội tụ đủ các yếu tố sau:

Về phía nạn nhân

Nạn nhân phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác.

Hành vi trái pháp luật, trước hết là hành vi phạm tội và những hành vi khác trái với quy định của pháp luật thuộc các ngành luật khác như: Luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, luật hành chính, luật kinh tế và các văn bản pháp luật khác.

Về phía người có hành vi phòng vệ

Quyền phòng vệ chính đáng chỉ phát sinh khi hành vi tấn công trái pháp luật gây thiệt hại đến các lợi ích đang hiện hữu xảy ra và chưa có dấu hiệu dừng lại. Người phòng vệ chỉ được gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm mà không gây thiệt hại cho người khác thì mới được xem là phòng vệ chính đáng.

Về mối tương quan giữa hành vi tấn công gây thiệt hại và hành vi phòng vệ chính đáng:

Hành vi xâm phạm trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải xem xét trong mối tương quan với hành vi chống trả, không phải bất cứ hành vi tội phạm nào xảy ra, người có hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có hành vi xâm phạm đều là phòng vệ chính đáng. Sự tương quan ở đây được hiểu là sự tương quan về tính chất và mức độ được xác định dựa vào các yếu tố chủ quan và khách quan.

Về hành vi chống trả

Hành vi chống trả phải là cần thiết. Cần thiết là không thể không chống trả hoặc không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của người khác, của xã hội.

Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật mà nó còn thể hiện thái độ tích cực chống trả sự xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hoặc của người khác.

Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.

Thế nào là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Khoản 2 Điều 22 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về hành vi Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau:

2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.”

Hành vi chỉ được xem là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng chống trả quá mức cần thiết hoặc không phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.

Giới hạn “cần thiết” được hiểu là biện pháp phòng vệ nói chung đủ mức ngăn chặn sự tấn công và bảo vệ được các lợi ích hợp pháp. Giới hạn cần thiết không có nghĩa là hậu quả mà người phòng vệ đã gây ra phải bằng hay tương đương với thiệt hại mà người có hành vi tấn công trái pháp luật định gây ra.

Một số tội danh do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trong trường hợp này trách nhiệm hình sự của người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng không như những trường hợp bình thường. Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã coi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một trong những tình tiết được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng gây hậu quả xảy ra, có thể bị một số tội như sau:

  • Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 Bộ Luật Hình sự 2015)

+ Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

+ Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

  • Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 Bộ Luật Hình sự 2015)

+ Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Ngoài ra tùy theo tình tiết tăng nặng có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CHIA TÀI SẢN LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Chia tài sản ly hôn có yếu tố nước ngoài như thế nào? Thủ tục, cách chia ra sao?

Ly hôn có yếu tố nước ngoài là gì?

Theo quy định tai khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:

Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.

Quy định tại Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn có yếu tố nước ngoài quy định:

Điều 127. Ly hôn có yếu tố nước ngoài

1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy định của Luật này.

2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam.

3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.

Theo quy định trên, ta có thể hiểu, ly hôn có yếu tố nước ngoài được hiểu là ly hôn khi có một trong 3 yếu tố sau đây:

  • Vợ hoặc chồng là người nước ngoài/hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
  • Vợ chồng là công dân Việt Nam nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân theo pháp luật nước ngoài hoặc phát sinh quan hệ hôn nhân tại nước ngoài;
  • Hoặc ly hôn khi có tài sản ở nước ngoài;

Ngoài ra, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định tài sản được chia khi ly hôn là tài sản chung của vợ chồng và vợ, chồng có mong muốn chia khi ly hôn hoặc sau ly hôn.

Vợ chồng được quyền thỏa thuận cách thức, thủ tục phân chia tài sản chung khi ly hôn hoặc cơ quan có thẩm quyền chia tài sản theo quy định của pháp luật.

Chia tài sản theo thỏa thuận

  • Vợ, chồng có quyền lựa chọn tự mình giải quyết việc phân chia tài sản khi ly hôn hoặc yêu cầu Tòa án công nhận về sự thỏa thuận phân chia tài sản khi ly hôn;
  • Nếu tự thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn thì vợ chồng có thể tự mình thực hiện chia khi tài sản không có đăng ký quyền sở hữu hoặc có lập văn bản phân chia tại tổ chức hành nghề công chứng khi tài sản có đăng ký quyền sở hữu;
  • Sau khi lập văn bản phân chia, bên có quyền thực hiện đăng ký sang tên tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
  • Nếu đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền công nhận thỏa thuận phân chia tài sản thì thực hiện theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

Chia tài sản theo quy định của pháp luật

  • Trường hợp chia tài sản ly hôn có yếu tố nước ngoài mà có tranh chấp thì các bên có quyền thực hiện:
    • Tự thương lượng, hòa giải, thỏa thuận để thực hiện phân chia;
    • Nếu thỏa thuận được thì thực hiện như trường hợp 1;
    • Nếu không thỏa thuận được thì có quyền khởi kiện tới Tòa án nhân dân có thẩm quyền để được giải quyết;
  • Việc giải quyết chia tài sản ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân được thực hiện theo các bước cơ bản như sau:
    • Bước 1: Nộp đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản ly hôn cùng tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền
    • Bước 2: Chuẩn bị xét xử vụ án ly hôn chia tài sản
    • Bước 3: Đưa vụ án ra xét xử

Như vậy, thủ tục phân chia tài sản ly hôn có yếu tố nước ngoài có thể do các bên tự lựa chọn hoặc do cơ quan có thẩm quyền hoặc Tòa án nhân dân giải quyết.

Thủ tục phân chia tài sản khi ly hôn phụ thuộc vào loại tài sản, căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản là theo pháp luật Việt Nam hoặc nước ngoài, nhu cầu của các bên và có hoặc không có tranh chấp phát sinh trong quá trình phân chia. Để áp dụng pháp luật trong việc chia tài sản khi ly hôn, Tòa án không những áp dụng quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam mà còn phải vận dụng quy định trong Bộ luật dân sự 2015, Luật Đất đai 2013 (đối với tài sản là quyền sử dụng đất), cũng như các văn bản pháp luật có liên quan.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!