NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Suy đoán vô tội là trạng thái mà theo đó người bị buộc tội được suy đoán vô tội trong khi việc phạm tội của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc suy đoán vô tội này nhằm định hướng cho việc xây dựng và thực thực thi pháp luật tố tụng hình sự.

Nguyên tắc suy đoán vô tội

Suy đoán vô tội là một nguyên tắc có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung và quá trình chứng minh nói riêng; giúp hoạt động chứng minh được thực hiện đúng quy định pháp luật, theo trình tự thủ tục nhất định và loại trừ những yếu tố, vấn đề còn nghi ngờ về hành vi phạm tội.

 Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng mang ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTHS; tạo ra một hành lang pháp lý trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tố tụng, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho việc phát huy, bảo đảm các quyền cá nhân, sự công bằng, khách quan.

Suy đoán vô tội có nội dung quan trọng và trọng tâm là bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phản ánh bản chất nhân văn, nhân đạo của pháp luật dân chủ và pháp quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, loại trừ việc buộc tội và kết án thiếu căn cứ.

Quy định pháp luật về nguyên tắc suy đoán vô tội

Quy định pháp luật về suy đoán vô tội

Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Khoản 1 Điều 31)

Căn cứ Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015) quy định:

“Điều 13. Suy đoán vô tội

Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”

Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội

Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 đã cụ thể hoá quy định của Hiến pháp 2013.

Tinh thần cốt lõi của nguyên tắc này là: Khi tạm giữ, khởi tố điều tra, truy tố và xét xử một người bị tình nghi phạm tội, hoặc họ đã trở thành bị can, bị cáo trong vụ án hình sự thì trong tâm thức của những người tiến hành tố tụng phải coi họ là người không có tội. Người tiến hành tố tụng thực sự mong muốn họ là người không có tội, nhưng vì những chứng cứ thu thập được là những bằng chứng hoàn toàn chống lại họ, không có bất kỳ một chứng cứ nào cho thấy họ vô tội, nên buộc lòng phải kết luận và quyết định truy tố, xét xử họ về tội đã phạm. 

Việc kết tội là hệ quả của các bằng chứng rõ ràng về hành vi phạm tội của họ mà không thể nào khác được.

Chủ thể có quyền được suy đoán vô tội là người bị buộc tội, bao gồm người bị người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điểm đ, khoản 1, Điều 4, BLTTHS 2015).

Ngoài Điều 13, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội còn được quy định tại các điều luật khác của BLTTHS 2015. Cụ thể:

  • Thứ nhất, BLTTHS 2015 đã ghi nhận Toà án là cơ quan duy nhất có quyền tuyên một người là phạm tội. Khoản 1, Điều 326 quy định “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án”.
  • Thứ hai, BLTTHS 2015 yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết (Điều 8 BLTTHS 2015). Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải quan tâm, tạo điều kiện cho người bị buộc tội trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án để chứng minh họ không có tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

BLTTHS 2015 quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS. Nghiêm cấm các hình thức tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người (Điều 10 BLTTHS 2015).

  • Thứ ba, BLTTHS 2015 quy định mọi hoạt động TTHS phải tuân thủ trình tự, thủ tục luật định. Điều 7 xác định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”. Chứng cứ sẽ vô hiệu (Điều 87), hồ sơ phải được trả lại để điều tra bổ sung (Điều 236 và Điều 280), bản án bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại khi xét xử phúc thẩm (Điều 358) và trong thủ tục giám đốc thẩm (Khoản 3 Điều 371, Điều 388 BLTTHS 2015) nếu phát hiện có vi phạm thủ tục tố tụng.
  • Thứ tư, BLTTHS 2015 quy định việc nghị án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác (Khoản 2 Điều 326 BLTTHS 2015).
  • Thứ năm, BLTTHS 2015 quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội (Điều 15 BLTTHS 2015).
  • Thứ sáu, BLTTHS 2015 đã ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc tội. Theo đó, người bị buộc tội có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội (Điều 58 – Điều 61). Lời nhận tội của người bị buộc tội chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của người bị buộc tội làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội (Điều 98).

———————————

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

THẾ CHẤP TÀI SẢN HÌNH THÀNH TRONG TƯƠNG LAI

Tài sản hình thành trong tương lai có thế chấp được không? Điều kiện thế chấp quyền sử dụng đất hình thành trong tương lai.

Thế chấp tài sản là gì?

Thế chấp tài sản được hiểu là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.

Theo quy định tại Điều 317 của Bộ luật dân sự năm 2015 thế chấp tài sản là:

“1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)

2.Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.”

Việc thế chấp phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Nội dung của văn bản thế chấp được lập riêng phải phù hợp với hợp đồng chính.

Văn bản thế chấp phải công chứng hoặc chứng thực nếu pháp luật có quy định hoặc các bên có thỏa thuận. Việc công chứng, chứng thực sẽ bảo đảm an toàn về pháp lý của các giao dịch.

Tài sản hình thành trong tương lai

Căn cứ theo khoản 2 Điều 108 Bộ luật Dân sự 2015 quy định tài sản hình thành trong tương lai bao gồm:

  • Tài sản chưa hình thành;
  • Tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu sau thời điểm xác lập giao dịch.

Tài sản hình thành trong tương lai có thể là động sản hoặc bất động sản theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật Dân sự.

Theo đó, tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại, đang được đầu tư, xây dựng vào thời điểm xem xét nhưng chắc chắn sẽ có và hình thành trong tương lai hoặc là tài sản đã hình thành nhưng mới thuộc sở hữu tại thời điểm giao kết giao dịch và chưa chuyển giao quyền sở hữu.

Điều kiện để đăng ký giao dịch bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai:

Căn cứ tại Khoản 3 Điều 295 Bộ luật dân sự 2015 thì quy định về thế chấp tài sản bảo đảm như sau:

“Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai”

Như vậy, khi vay thế chấp, bên vay có thể dùng tài sản hình thành trong tương lai làm biện pháp bảo đảm trong hợp đồng. Tuy nhiên, cần phải lưu ý một số yêu cầu quy định tại Điều 295 như sau:

– Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.

– Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được.

– Giá trị của tài sản bảo đảm do thỏa thuận của các bên, có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.

Vay thế chấp tài sản hình thành trong tương lai cần giấy tờ gì?

Thông thường khi thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, các ngân hàng, tổ chức tín dụng thường yêu cầu khách hàng cung cấp các loại giấy tờ chứng minh nguồn gốc, giá trị và quyền sở hữu tài sản.

Đối với tài sản là quyền sở hữu bất động sản, Điều 148 Luật nhà ở 2014 quy định về điều kiện thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai được quy định như sau:

Trường hợp chủ đầu tư thế chấp một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư xây dựng nhà ở thì phải có: hồ sơ dự án, có thiết kế kỹ thuật của dự án được phê duyệt và đã có Giấy chứng nhận hoặc quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, nhà ở thế chấp phải thuộc diện đã xây dựng xong phần móng.

Trường hợp tổ chức, cá nhân thế chấp nhà ở, chung cư hình thành trong tương lai thì phải có:

Giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất ở hợp pháp theo quy định của pháp luật về đất đai, Giấy phép xây dựng nếu thuộc diện phải có Giấy phép xây dựng.

Hợp đồng mua bán nhà ở ký kết với chủ đầu tư, có văn bản chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở nếu là bên nhận chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở theo quy định, có giấy tờ chứng minh đã đóng tiền mua nhà ở cho chủ đầu tư theo tiến độ thỏa thuận trong hợp đồng mua bán và không thuộc diện đang có khiếu nại, khiếu kiện, tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở hoặc về việc chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở này.

Tài sản hình thành trong tương lai thì theo quy định tại Điều 108 Bộ luật dân sự năm 2015 tài sản trong tương lai là tài sản chưa được hình thành và tài sản đã được hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch.

Như vậy có thể thấy, tài sản hình thành trong tương lai là tài sản đó phải đang được đầu tư hoặc xây dựng trong quá trình hình thành và cũng chưa được hoàn thiện về công năng, công dụng, tính chất đặc trưng của sản phẩm.

———————————

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

TỘI NHẬN HỐI LỘ VÀ HÌNH PHẠT

Nhận hối lộ bao nhiêu tiền thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Khung hình phạt cao nhất cho tội nhận hối lộ là bao nhiêu năm?

Nhận hối lộ là gì?

Trong quy định của Bộ luật Hình sư, nhận hối lộ là một trong các tội phạm về chức vụ. Nhận hối lộ là một dạng hành vi tham nhũng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức.

Nhận hối lộ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích vật chất (của hối lộ) cho bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hay không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của bên đưa hối lộ.

Cấu thành tội phạm của nhận hối lộ

Tội nhận hối lộ thuộc một trong những tội phạm về chức vụ được quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Về mặt chủ thể:

Người phạm tội nhận hối lộ là người có chức vụ quyền hạn ở khu vục Nhà nước hoặc trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.

Người có chức vụ, quyền hạn, phải là người có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ. Những yêu cầu đó có thể là yêu cầu về lợi ích vật chất hoặc phi vật chất của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, người có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ phải là việc thực hiện công vụ. Nếu có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết yêu cầu cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất của họ, nhưng không phải là thực hiện công vụ thì không phải là nhận hối lộ.

Về mặt khách thể:

Khách thể của loại tội phạm này trực tiếp xâm phạm sự hoạt động đúng đắn, bình thường, tính chuẩn mực của các cơ quan, tổ chức do Nhà nước quy định.

Về mặt khách quan của tội phạm:
  • Có hành vi nhận của hối lộ từ người khác nhằm làm hoặc không làm một việc gì đó vì mục đích vụ lợi, người nhận hối lộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhận tiền của hoặc lợi ích vật chất khác dưới vất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu hoặc vì lợi ích của người đưa hối lộ.
  • Hành vi nhận hối lộ được thực hiện trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất, lợi ích phi vật chất khác. Trường hợp sẽ nhận là trường hợp người có chức vụ chưa nhận tiền của hối lộ nhưng có căn cứ cho rằng đã có sự thỏa thuận về việc nhận hối lộ sau khi thực hiện xong một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Về mặt chủ quan của tội nhận hối lộ:

Mặt chủ quan của tội nhận hối lộ là tội phạm thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được họ là người có chức vụ, quyền hạn tuy nhiên họ lại lợi dụng chính chức vụ, quyền hạn của mình để nhận tiền hối lộ của người khác. Nhận thấy đây là hành vi trái với pháp luật, đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, người phạm tội vẫn mong muốn nhân được tiền của hối lộ, thậm chí còn có những hành vi vòi vĩnh, hay gợi ý, nhũng nhiễu đối với người đưa hối lộ.

Khung hình phạt của tội nhận hối lộ

  • Người vi phạm lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để nhận hối lộ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội danh về tham nhũng, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; hoặc lợi ích phi vật chất khác.
  • Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: Đối với những hành vi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội về tham nhũng, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
  • Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn; Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng; Phạm tội 02 lần trở lên; Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước; Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt.
  • Phạt tù từ 15 năm đến 20 năm khi thuộc một trong các trường hợp sau: Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.
  • Phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình khi thuộc một trong các trường hợp sau: Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
  • Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
  • Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.

Như vậy, đối với tội nhận hối lộ thì mức phạt tù cao nhất lên đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

———————————

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA CON CHƯA THÀNH NIÊN

Người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên là ai?

Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi (Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015)

Đối với người chưa thành niên, pháp luật quy định một số hạn chế khi tham gia các giao dịch dân sự cũng như thực hiện các quyền của mình.

  • Người chưa đủ 06 tuổi khi thực hiện giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập;
  • Người từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi;
  • Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Pháp luật quy định người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên là điều cần thiết hiện nay bởi việc này đảm bảo kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong pháp luật tố tụng và pháp luật dân sự. 

Đại diện là gì?

Đại diện: là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.

Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện.

Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật

Theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về căn cứ xác lập quyền đại diện như sau:

Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).

Như vậy, đại diện là việc cá nhân hoặc pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự.

Căn cứ để thực hiện quyền đại diện thông qua các thủ tục như sau:

  • Theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện.
  • Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  • Theo điều lệ của pháp nhân.
  • Theo quy định của pháp luật.

Người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên

Căn cứ theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 về người đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau:

  • Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
  • Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
  • Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 146 Bộ luật dân sự năm 2015.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 73 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về đại diện cho con như sau:

Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật.

Như vậy, về nguyên tắc, đối với con chưa thành niên, người đại diện theo pháp luật sẽ là cha mẹ.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, người đại diện có thể là người giám hộ theo luật quy định. Trường hợp không xác định được cha, mẹ hay người giám hộ là người đại diện thì việc xác định người đại diện cho con chưa thành niên được Tòa án chỉ định.

Căn cứ theo Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 73 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có quy định như sau:

  • Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên.
  • Trường hợp giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.
  • Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại nêu trên, cha mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 143 Bộ luật Dân sự 2015, khi cha mẹ cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện gây thiệt hại cho con thì phải chịu liên đới trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên trong tố tụng

Theo Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là người chưa đủ 18 tuổi người chưa thành niên như sau:

  • Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
  • Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
  • Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

TRƯỜNG HỢP CHẤM DỨT HOẠT ĐỘNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Việc bắt đầu hay kết thúc hoạt động của một dự án đầu tư đều được thực hiện thông qua cơ quan đăng ký về đầu tư và thông qua các thủ tục mà các nhà đầu tư không thể bỏ qua. Vậy dự án đầu tư có thể bị chấm dứt hoạt động trong trường hợp nào?

Các trường hợp chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư

Theo quy định tại Điều 48 Luật Đầu tư 2020, dự án đầu tư bị chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau:

Trường hợp nhà đầu tư chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư

Nhà đầu tư chấm dứt hoạt động đầu tư, dự án đầu tư trong các trường hợp sau:

  • Nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư.
  • Theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ doanh nghiệp.
  • Hết thời hạn hoạt động của dự án đầu tư.

Trường hợp cơ quan đăng ký đầu tư chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư

Cơ quan đăng ký đầu tư chấm dứt hoặc chấm dứt một phần hoạt đồng của dự án trong các trường hợp sau:

(1) Dự án đầu tư thuộc một trong các trường hợp dưới đây bị cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư quyết định ngừng hoặc ngừng một phần hoạt động của dự án đầu tư mà nhà đầu tư không có khả năng khắc phục điều kiện ngừng hoạt động:

– Để bảo vệ di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia theo quy định của Luật Di sản văn hóa.

– Để khắc phục vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường.

– Để thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động theo đề nghị của cơ quan nhà nước quản lý về lao động.

– Theo bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết trọng tài.

– Nhà đầu tư không thực hiện đúng nội dung chấp thuận chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng tiếp tục vi phạm.

– Thủ tướng Chính phủ quyết định ngừng, ngừng một phần hoạt động của dự án đầu tư trong trường hợp việc thực hiện dự án đầu tư gây phương hại hoặc có nguy cơ gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia theo đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

(2) Nhà đầu tư không được tiếp tục sử dụng địa điểm đầu tư và không thực hiện thủ tục điều chỉnh địa điểm đầu tư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày không được tiếp tục sử dụng địa điểm đầu tư, trừ trường hợp (4) tại Mục 2 này.

(3) Dự án đầu tư đã ngừng hoạt động và hết thời hạn 12 tháng kể từ ngày ngừng hoạt động, cơ quan đăng ký đầu tư không liên lạc được với nhà đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của nhà đầu tư.

(4) Dự án đầu tư thuộc trường hợp bị thu hồi đất do không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai.

(5) Nhà đầu tư không ký quỹ hoặc không có bảo lãnh nghĩa vụ ký quỹ theo quy định của pháp luật đối với dự án đầu tư thuộc diện bảo đảm thực hiện dự án đầu tư.

(6) Nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư trên cơ sở giao dịch dân sự giả tạo theo quy định của pháp luật về dân sự.

(7) Theo bản án, quyết định của Tòa án, phán quyết trọng tài.

Đối với dự án đầu tư thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư sau khi có ý kiến của cơ quan chấp thuận chủ trương đầu tư.

Trách nhiệm của nhà đầu tư khi chấm dứt dự án đầu tư

  • Nhà đầu tư tự thanh lý dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về thanh lý tài sản;
  • Đối với dự án đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai;
  • Trong quá trình thanh lý dự án đầu tư, nếu nhà đầu tư là tổ chức kinh tế bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản thì việc thanh lý dự án đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản tổ chức kinh tế.
  • Trừ trường hợp được gia hạn, dự án đầu tư bị Nhà nước thu hồi đất và nhà đầu tư không tự thanh lý tài sản gắn liền với đất trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày bị thu hồi đất, cơ quan ra quyết định thu hồi đất tổ chức thanh lý tài sản gắn liền với đất.
  • Cơ quan đăng ký đầu tư quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư chấm dứt hoạt động trường hợp nêu trên, trừ trường hợp chấm dứt một phần hoạt động của dự án đầu tư.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!