CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được hiểu là hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái không tự chủ kiềm chế được hành vi phạm tội của mình do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội được quy định tại Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017)

Trạng thái tinh thần kích động mạnh là gì?

Hiện nay, không có văn bản nào hướng dẫn về “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), tuy nhiên có thể kham thảo tinh thần của Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn “tình trạng tinh thần bị kích động mạnh” tại Bộ luật Hình sự 1985 như sau:

Tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh.

Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người đó tuy làm cho người phạm tội bị kích động mạnh, nhưng nói chung chưa đến mức là phạm tội. Nếu hành vi trái pháp luật đó trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội hoặc của xã hội, đã cấu thành tội phạm, thì hành vi chống trả lại gây chết người có thể được xem là trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Trong trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh.

 Để có thể xác định tinh thần của người phạm tội có bị kích động mạnh hay không và để phân biệt giữa “kích động” với “kích động mạnh”, cần xem xét một cách khác quan, toàn diện các mặt: thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của sự việc; mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội, trình độ văn hóa, chính trị, tính tình, cá tính của mỗi bên: mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội.

Dấu hiệu cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 

Về chủ thể

Chủ thể của tội này có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự

Về mặt khách thể

Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác

Về mặt chủ quan

Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý

Về mặt khách quan

– Hành vi khách quan:

  • Người phạm tội có hành vi cố ý gây thương, bị tổn hại đến sức khỏe của người khác như: đánh, đấm đá, đầu độc…trong trạng thái bị kích động mạnh bởi những hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc người thân thích của người đó.

Kích động về tinh thần là người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. Trạng thái này chỉ xảy ra trong chốc lát, sau đó tinh thần của họ trở lại bình thường như trước.

Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa tới mức mất khả năng tự chủ thì không gọi là bị kích động mạnh và không thuộc trường hợp phạm tội này. Việc xác định một người có bị kích động mạnh về tinh thần hay không là một vấn đề phức tạp. Bởi vì trạng thái tâm lý của mỗi người khác nhau, cùng một sự việc nhưng người này xử sự khác người kia; có người bị kích động về tinh thần, thậm chí, nhưng cũng có người vẫn bình thường, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra.

Hậu quả: Người có hành vi nêu trên phải gây thương tật cho người bị hại tỷ lệ từ 31% trở lên đến 60%

Hình phạt

  • Đối với trường hợp thuộc cấu thành cơ bản: người phạm tội bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
  • Đối với trường hợp thuộc cấu thành tăng nặng: Người phạm tội bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CHI PHÍ LÀM SỔ ĐỎ SAU NĂM 2023 SẼ TĂNG THEO LUẬT MỚI?

Chi phí làm sổ đỏ lần đầu năm 2023 bao gồm những khoản chi phí nào? Quy định bỏ khung giá đất trong dự thảo Luật Đất đai có thể sẽ đẩy chi phí cấp sổ đỏ gia tăng.

Chi phí cấp Sổ đỏ gồm những gì?

Theo quy định, người đề nghị cấp sổ đỏ phải nộp các khoản tiền. Trong đó, lệ phí trước bạ và lệ phí cấp sổ đỏ được ổn định ấn định trước, thống nhất với tất cả các thửa đất

  • Lệ phí trước bạ

Lệ phí trước bạ tính toán, đóng nộp theo quy định tại Nghị định 10/2022/NĐ-CP và Thông tư 13/2022/TT-BTC, mức lệ phí trước bạ phải nộp đối với nhà đất khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở;

  • Lệ phí cấp Giấy chứng nhận

Lệ phí cấp Giấy chứng nhận do HĐND cấp tỉnh quyết định, do đó mức thu từng tỉnh, thành có thể khác nhau, thông thường từ 100.000 đồng trở xuống/giấy/lần cấp.

  • Phí thẩm định hồ sơ

Điểm i khoản 1 Điều 5 Thông tư 85/2019/TT-BTC được sửa đổi bởi Thông tư 106/2021/TT-BTC quy định. Tùy theo quy mô diện tích của thửa đất, tính chất phức tạp của từng loại hồ sơ, mục đích sử dụng đất và điều kiện cụ thể của địa phương để quy định mức thu phí cho từng trường hợp.

  • Tiền sử dụng đất

Khi được cấp sổ đỏ lần đầu, người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất, số tiền này được xác định dựa trên giá đất, mục đích sử dụng đất và diện tích đất được giao. Ngoài ra, tiền sử dụng đất cũng phụ thuộc rất lớn vào nguồn gốc thửa đất được cấp sổ đỏ, thời điểm sử dụng đất và giấy tờ chứng minh việc sử dụng đất cũng như thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất. Khoản chi phí làm sổ đỏ lần đầu là tiền sử dụng đất là khoản phí lớn nhất mà người sử dụng đất phải đóng nộp.

Sau năm 2023, chi phí cấp Sổ đỏ sẽ tăng theo Luật mới?

Bảng giá đất là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí làm Sổ đỏ (dùng để xác định lệ phí trước bạ). Do đó, việc điều chỉnh quy định liên quan đến bảng giá đất sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới chi phí cấp Sổ đỏ.

Luật Đất đai hiện hành quy định (Điều 113 Luật Đất đai 2013), khung giá đất do Chính phủ ban hành định kỳ 5 năm 1 lần, căn cứ khung giá đất của Chính phủ, các tỉnh thành ban hành Bảng giá đất. Bảng giá đất này là căn cứ để tính tiền sử dụng đất, các khoản phí và lệ phí khác khi làm sổ đỏ.

Theo Dự thảo Luật Đất đai mới nhất, khung giá đất bị bãi bỏ. Điều 154 của dự thảo quy định, bảng giá đất được xây dựng định kỳ hàng năm được công bố công khai và áp dụng từ ngày 01 tháng 01 của năm.

Như vậy, khi bỏ khung giá đất, Nhà nước sẽ không áp dụng mức giá tổi thiểu và tối đa với từng loại đất nữa mà thay vào đó trước khi ban hành Bảng giá đất của từng địa phương. UBND cấp tỉnh sẽ căn cứ vào các nguyên tắc, các phương pháp định giá đất, các quy chuẩn và giá đất, sự biến động về giá đất thực tế trên thị trường để xây dựng Bảng giá đất. Dự thảo Luật mới còn cho phép địa phương được xây dựng, điều chỉnh định kỳ bảng giá đất 1 năm một lần, thay vì 5 năm như hiện tại. Việc sửa đổi quy định liên quan đến khung giá đất nhằm đưa giá đất trở về sát giá thị trường, tránh trường hợp thất thu trong chuyển nhượng và làm thủ tục “sổ đỏ”. Điều này cũng đồng nghĩa, khi mức định giá đất tăng, các chi phí làm “sổ đỏ” như tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, ngay cả chi phí chuyển nhượng sang tên cũng sẽ gia tăng theo.

Do đó, nếu như dự thảo Luật Đất đai được thông qua vào cuối năm nay thì rất có thể, từ sau năm 2023, khi Bảng giá đất tại mỗi địa phương tăng thì kéo theo các chi phí làm Sổ đỏ cũng tăng lên.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

THAY ĐỔI VỀ THẨM QUYỀN CẤP SỔ ĐỎ TỪ 20/5/2023

Thẩm quyền cấp sổ đỏ từ ngày 20/5/2023 là nội dung được sửa đổi tại Nghị định 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023. Vậy, việc này được quy định cụ thể như thế nào theo Nghị định 10/2023?

Cụ thể, khoản 5 Điều 1 Nghị định 10/2023 sửa đổi, bổ sung Điều 37 Nghị định 43/2014 về thẩm quyền cấp Sổ đỏ trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 95, khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai.

  • Những trường hợp đăng ký biến động đã được cấp Giấy chứng nhận hoặc đã đăng ký mà có thay đổi theo quy định (theo khoản 4 Điều 95 Luật đất đai)
  • Những trường hợp đã được cấp Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng mà thực hiện các quyền của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng (theo khoản 3 Điều 105 của Luật đất đai).

Theo đó, thẩm quyền cấp sổ đỏ đối với những trường hợp nêu trên được  quy định tại Khoản 5 Điều 1 Nghị định 10/2023 sửa đổi, bổ sung Điều 37 Nghị định 43/2014 như sau:

Đối với các địa phương đã thành lập Văn phòng đăng ký đất đai thì việc cấp Giấy chứng nhận, xác nhận thay đổi vào Giấy chứng nhận đã cấp do các cơ quan sau thực hiện:

Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện đối với:

  • Tổ chức, cơ sở tôn giáo;
  • Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án đầu tư;
  • Tổ chức, cá nhân nước ngoài;
  • Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai hoặc Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện đối với:

  • Hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.

 Văn phòng đăng ký đất đai, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai được sử dụng con dấu của mình để thực hiện cấp Giấy chứng nhận, xác nhận thay đổi vào Giấy chứng nhận đã cấp.

Quy định hiện hành tại khoản 1 Điều 37 Nghị định 43/2014 quy định các địa phương đã thành lập Văn phòng đăng ký đất đai thì Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ cấp Giấy chứng nhận trong các trường hợp:

  • Mua bán, chuyển mục đích sử dụng,… mà phải cấp mới Giấy chứng nhận;
  • Cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận.

Như vậy so với quy định hiện hành, quy định mới tại Nghị định 10/2023 đã sửa đổi theo hướng thuận tiện cho người dân, một số thủ tục trước đây phải lên Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện thì sắp tới có thể thực hiện tại Văn phòng đăng ký đất đai.

Nghị định 10/2023 có hiệu lực từ ngày 20/5/2023.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CHA MẸ BÁN ĐẤT CÓ CẦN CHỮ KÝ CỦA CON KHÔNG?

Thực tế hiện nay, có trường hợp cha mẹ bán đất thì cần phải có chữ ký của con nhưng lại có trường hợp không cần chữ ký của con. Vậy, pháp luật quy định các trường hợp này như thế nào?

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi “Hộ gia đình, gồm ông” (hoặc “Hộ gia đình, gồm bà”) (Khoản 5 Điều 6 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT) thì quyền sử dụng đất đó thuộc sở hữu chung của tất cả thành viên trong hộ gia đình bao gồm cả cha mẹ và các con.

Như vậy, nếu cha mẹ muốn bán đất thì phải có sự đồng ý bằng văn bản và chữ ký của các con là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất và văn bản đồng ý đó phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Nghị định 43/2014/NĐ-CP và khoản 5 Điều 14 Thông tư 02/2015/TT-BTNMT

Trường hợp hộ gia đình có thành viên chưa thành niên, hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì cần có sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 58 Bộ luật Dân sự 2015.

Một số lưu ý để xác định là thành viên hộ gia đình có chung quyền sử dụng đất thì cần đáp ứng đủ 2 điều kiện sau:

– Có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

– Đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

(Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013)

Như vậy, nếu con sinh ra sau thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất thì dù là đất cấp cho hộ gia đình thì cũng không có quyền sử dụng đất chung.

Ngoài trường hợp đất cấp cho hộ gia đình thì những trường hợp còn lại, cha mẹ bán đất không cần chữ ký của các con. Khi nhà ở thuộc diện sở hữu riêng của cá nhân thì căn cứ vào quy định tại Điều 206 Bộ luật dân sự thì chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Do đó, khi thuộc trường hợp nhà là sở hữu riêng của cha, mẹ thì khi bán nhà không cần sự đồng ý của con cái.

————————————–

Hy vọng những nội dung trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

CẤU THÀNH TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội. Các yếu tố cấu thành của tội cưỡng đoạt tài sản gồm những gì?

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định theo hành vi phạm tội cụ thể

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên (phạm tội thuộc khoản 1) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (phạm tội thuộc các khoản 2,3,4) và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 135, vì khoản 1 Điều 135 là tội phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

Mặt khách quan của tội phạm

Tội cưỡng đoạt tài sản có các dấu hiệu sau:

Có hành vi đe dọa dùng vũ lực. Hành vi đe dọa dùng vũ lực được hiểu là hành vi của người phạm tội đe dọa sẽ thực hiện một hành động để gây thiệt hại cho người bị hại. Hành vi này nhằm mục đích làm cho người bị hại sợ và giao tài sản cho người phạm tội chiếm đoạt theo yêu cầu của người phạm tội đưa ra.

Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi có thể được thực hiện bằng cử chỉ, hành động hoặc bằng lời nói, và việc dùng vũ lực cũng không xảy ra ngay tức khắc. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định về thời gian. Do vậy, người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt với tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự.

Việc đe doạ được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Người phạm tội có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhưng cũng có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người khác (chủ yếu là đối với người thân của người có trách nhiệm với tài sản).

Ngoài hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản, thì người phạm tội còn có thể thực hiện những thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản để chiếm đoạt tài sản. Những thủ đoạn như: Doạ sẽ huỷ hoại tài sản; doạ sẽ tố cáo hành vi sai phạm hoặc những bí mật đời tư; bịa đặt, vu khống người có trách nhiệm về tài sản;…

Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức, và được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi phân tích ở trên chứ không phụ thuộc vào việc có chiếm đoạt được tài sản hay không. Do đó, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dạo sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành.

Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản

Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như khách thể của tội cướp tài sản và tội bắt cọc nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi của tội phạm xâm phạm đến quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu tài sản của người khác, trong đó chủ yếu là quan hệ sở hữu.

Việc xâm phạm đến quan hệ nhân thân không phải là mục đích của tội phạm mà chỉ là đe dọa tinh thần của người bị hại làm cho người bị hại phải giao tài sản

Mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích chiếm đoạt tài sản là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!