THỦ TỤC KHÁNG CÁO BẢN ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM

Thủ tục kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015? Ý nghĩa của quyền kháng cáo?

Để đảm tính công bằng nên pháp luật quy định các chủ thể liên quan đến vụ án sẽ được quyền kháng cáo nếu không đồng ý với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Thông qua đó các đương sự có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vậy kháng cáo là gì? Bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc xung quanh vấn đều nêu trên.

1. Kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm là gì?

Kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm là quyền của các đương sự, theo đó các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khởi kiện các quyết định, bản án của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật.

2. Thủ tục kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến việc kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm như sau:

2.1. Người có quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, những chủ thể sau có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm:

– Đương sự;

– Người đại diện hợp pháp của đương sự;

– Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện.

2.2. Đơn kháng cáo

Theo quy định tại Điều 272 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về đơn kháng cáo như sau:

“Điều 272. Đơn kháng cáo

1. Khi thực hiện quyền kháng cáo, người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo.

Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;

b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo;

c) Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;

d) Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;

đ) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.

2. Người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ.

3. Người kháng cáo quy định tại khoản 2 Điều này nếu không tự mình kháng cáo thì có thể ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền của người kháng cáo, của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo và văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.

4. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của đương sự là cơ quan, tổ chức; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó, trường hợp doanh nghiệp kháng cáo thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp.

Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác kháng cáo thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền, của đương sự là cơ quan, tổ chức ủy quyền; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của đương sự là cơ quan, tổ chức ủy quyền; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó và văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.

5. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật; họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo pháp luật phải ký tên hoặc điểm chỉ.

Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền và văn bản ủy quyền; họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền; họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.

6. Việc ủy quyền quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản ủy quyền đó được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.

7. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của Bộ luật này.

8. Kèm theo đơn kháng cáo, người kháng cáo phải gửi tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp.”

2.3. Thời hạn kháng cáo

Theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về thời hạn kháng cáo như sau:

– Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.

– Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại giam xác nhận.

2.4. Kiểm tra đơn kháng cáo

Theo quy định tại Điều 274 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về kiểm tra đơn kháng cáo như sau:

“Điều 274. Kiểm tra đơn kháng cáo

1. Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định tại Điều 272 của Bộ luật này.

2. Trường hợp đơn kháng cáo quá hạn thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày rõ lý do và xuất trình tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.

3. Trường hợp đơn kháng cáo chưa đúng quy định tại Điều 272 của Bộ luật này thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo làm lại hoặc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo.

4. Tòa án trả lại đơn kháng cáo trong các trường hợp sau đây:

a) Người kháng cáo không có quyền kháng cáo;

b) Người kháng cáo không làm lại đơn kháng cáo hoặc không sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 3 Điều này.

c) Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 276 của Bộ luật này.

2.5. Kháng cáo quá hạn và xem xét kháng cáo quá hạn

Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về kháng cáo quá hạn và xem xét kháng cáo quá hạn như sau:

Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm.

– Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét kháng cáo quá hạn. Phiên họp xem xét kháng cáo quá hạn phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và người kháng cáo quá hạn. Trường hợp người kháng cáo, Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.

– Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc kháng cáo quá hạn, ý kiến của người kháng cáo quá hạn, đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn quyết định theo đa số về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn

2.6. Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 276 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm như sau:

” Điều 276. Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm

1. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật, nếu họ không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.

2. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Hết thời hạn này mà người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì được coi là từ bỏ việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

Trường hợp sau khi hết thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo mới nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà không nêu rõ lý do thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án phải có văn bản trình bày lý do chậm nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp này được xử lý theo thủ tục xem xét kháng cáo quá hạn.”

2.7. Thông báo về việc kháng cáo

Theo quy định tại Điều 277 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về thông báo về việc kháng cáo như sau:

” Điều 277. Thông báo về việc kháng cáo

1. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo biết về việc kháng cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ bổ sung mà người kháng cáo gửi kèm đơn kháng cáo.

2. Đương sự có liên quan đến kháng cáo được thông báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.”

3. Ý nghĩa của quyền kháng cáo:

Trong hoạt động tố tụng, quyền kháng cáo đóng vai trò vô cùng quan trọng, theo đó:

Quyền kháng cáo tạo ra một trong những điều kiện làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án dưới trực tiếp. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp Luật mà còn phát hiện, khắc phục kịp thời các thiếu sót, sai lầm về xét xử của Tòa án cấp dưới. Quyền kháng cáo là một trong những phương tiện hữu hiệu để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo trong tố tụng hình sự. Thông qua việc xét xử các vụ án do công dân thực hiện quyền kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm góp phần đảm bảo nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, nâng cao chất lượng xét xử, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý, công bằng xã hội cho nhân dân, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quyền kháng cáo còn thay cho tiếng nói của công dân trong xét xử, là cơ sở để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử hình sự?

Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự. Trong giai đoạn này, nhiều vụ án hình sự đang xét xử đã bị hoãn do phải trả hồ sơ điều tra bổ sung. Vậy trường hợp nào trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung?

1. Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung?

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một trong những thủ tục của Tòa án trong quá trình xét xử để điều tra bổ sung. Thường là trong những vụ án hình sự có tính chất phức tạp, các chứng cứ được thu thập chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc các chứng cứ có nội dung mâu thuẫn mà cơ quan có thẩm quyền chưa thể xác minh, làm rõ ngay được. Khi đó, Tòa án sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm làm rõ những điều mâu thuẫn trên. 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 như sau:

1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;

b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;

c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;

d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng….

Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.

1.1. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thống nhất ban hành Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:

Khi thiếu chứng cứ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

a) Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi đã xảy ra có đủ yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính và các trường hợp khác theo quy định của luật);

b) Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;

c) Chứng cứ để chứng minh “ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một chủ thể cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;

d) Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định chủ thể có lỗi hoặc không có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; nếu có lỗi thì là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Bộ luật Hình sự;

đ) Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không; nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;

e) Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì; mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt;

g) Chứng cứ để chứng minh “tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định bị can, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 51, Điều 84 của Bộ luật Hình sự hoặc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52, Điều 85 của Bộ luật Hình sự;

h) Chứng cứ để chứng minh “đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định lý lịch của bị can, bị cáo; nếu bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại thì phải chứng minh tên, địa chỉ và những vấn đề khác có liên quan đến địa vị pháp lý và hoạt động của pháp nhân thương mại;

i) Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, mức độ thiệt hại, hậu quả về vật chất, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra;

k) Chứng cứ để chứng minh “nguyên nhân và điều kiện phạm tội” là chứng cứ xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, điều kiện cụ thể dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội;

l) Chứng cứ để chứng minh “những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” là chứng cứ chứng minh những vấn đề được quy định tại các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 59, 88 và các điều luật khác của Bộ luật Hình sự;

m) Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: chứng cứ để xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; chứng cứ để xác định trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo và những vấn đề khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật;

n) Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thì ngoài việc xác định chứng cứ trong các trường hợp được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l và m khoản này còn phải xác định chứng cứ để chứng minh điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định tại Điều 75 của Bộ luật Hình sự.

Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng minh thuộc một trong các trường hợp nêu trên nếu xét thấy không thể bổ sung được trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa.

Không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng minh thuộc một trong các trường hợp nêu trên nhưng vẫn truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được chứng cứ đó.

Ví dụ 1: Có 03 người làm chứng nhưng chỉ xác định được 02 người.

Ví dụ 2: Hiện trường đã bị thay đổi không thể xem xét lại được hay vật chứng đã mất không thể tìm được.

1.2. Khi có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thống nhất ban hành Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:

Khi có căn cứ để khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

a) Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can hoặc bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;

b) Ngoài hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can hoặc bị cáo về một hay nhiều tội khác;

Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trường hợp thuộc điểm a trên nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can hoặc bị cáo về một hay nhiều tội tương ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị can hoặc bị cáo ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố;

b) Đã có quyết định tách vụ án hoặc chưa có quyết định tách vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhưng có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 170, khoản 2 Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

c) Đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Điều 284 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1.3. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thống nhất ban hành Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:

Khi có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

Ngoài bị can hoặc bị cáo đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

– Đã có quyết định tách vụ án hoặc chưa có quyết định tách vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhưng có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 170, khoản 2 Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Điều 284 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1.4. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thống nhất ban hành Thông tư liên tịch 02/2017/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:

Khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

a) Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

b) Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

c) Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

d) Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

e) Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;

g) Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);

h) Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

i) Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

k) Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;

l) Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

m) Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;

n) Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

o) Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

p) Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;

q) Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng;

b) Người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì họ đã đủ 18 tuổi.

2. Số lần được trả lại hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung

Theo khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì:

– Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần.

– Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.

– Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.

3. Thời hạn điều tra bổ sung trong vụ án hình sự

Thời hạn điều tra bổ sung được quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau:

  • Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì thời hạn điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
  • Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng;

+ Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;

+ Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng.

  • Trường hợp vụ án do:

+ Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02 tháng;

+ Vụ án do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng;

+ Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.

Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung.

  • Trường hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
  • Thời hạn điều tra được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
  • Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

+ Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

+ Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại thực hiện theo quy định tại Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Như vậy:

– Thời hạn phục hồi điều tra: Tối đa 2-3 tháng, có thể gia hạn 1-3 tháng tùy tính chất tội phạm.

– Thời hạn điều tra bổ sung: Tối đa 1-2 tháng tùy cơ quan yêu cầu.

– Thời hạn điều tra lại: Thời hạn như điều tra lần đầu, tối đa 2-4 tháng, có thể gia hạn 1-3 lần.

– Thời hạn tạm giam trong các trường hợp nêu trên không vượt quá thời hạn điều tra.

– Thời hạn được tính từ khi cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ.

Cơ quan điều tra có thể áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế theo quy định.

———————————-

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

ĐÒI LẠI NHÀ CHO THUÊ TRƯỚC HẠN CÓ PHẢI BỒI THƯỜNG KHÔNG?

Đòi lại nhà cho thuê trước hạn có phải bồi thường không?

Khi thuê nhà, không hiếm trường hợp người thuê bị đòi lại nhà trước hạn. Vậy bên cho thuê có được đòi lại nhà trước hạn không? Nếu đòi thì bên cho thuê có phải bồi thường không?


1. Chủ nhà được đòi lại nhà cho thuê trong trường hợp nào?

Trong quá trình thuê nhà, có nhiều trường hợp bất khả kháng cũng như nhiều nguyên nhân khiến việc thuê nhà không thực hiện đúng theo hợp đồng. Vậy có trường hợp nào, chủ nhà được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà không?

Theo quy định tại khoản 2 Điều 132 Luật Nhà ở năm 2014, người cho thuê nhà được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà và đòi lại nhà đang cho thuê nếu:

– Nhà thuê thuộc sở hữu Nhà nước, nhà ở xã hội và được cho thuê không đúng thẩm quyền, đối tượng, điều kiện.

– Người thuê không trả tiền thuê nhà từ 03 tháng trở lên mà không có lý do chính đáng.

– Người thuê thuê nhà và sử dụng nhà thuê không đúng mục đích đã thoả thuận.

– Người thuê tự ý đục phá, cơi nới, cải tạo, phá dỡ nhà ở đang thuê.

– Người thuê chuyển đổi, cho mượn, cho thuê lại mà không được bên cho thuê đồng ý.

– Người thuê làm mất trật tự, vệ sinh, ảnh hưởng đến người xung quanh và bị người cho thuê/tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng thôn, làng… lập biên bản đến ba lần nhưng không khắc phục.

– Bên thuê cải tạo nhà ở, được người thuê nhà đồng ý nhưng không thoả thuận được giá thuê nhà mới sau khi điều chỉnh. Trường hợp này, bên cho thuê có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà nhưng phải bồi thường cho bên thuê nhà.

Khi muốn chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước hạn, bên cho thuê phải báo trước cho bên kia ít nhất 30 ngày (khoản 4 Điều 132 Luật Nhà ở năm 2014) trừ trường hợp trong hợp đồng thuê nhà có thoả thuận khác về thời gian phải báo trước khác với quy định này.

Tuy nhiên, đây là trường hợp các bên có ký hợp đồng thuê nhà và có thoả thuận về thời hạn thuê.

Ngược lại, nếu không có hợp đồng thuê, thời hạn thuê không được thoả thuận hoặc không xác định theo mục đích thuê thì căn cứ khoản 2 Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2015, người cho thuê có thể đơn phương không cho thuê bất cứ lúc nào nhưng vẫn phải báo cho bên thuê trước một khoảng thời gian.

Như vậy, nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì bên cho thuê hoàn toàn có quyền đòi lại nhà cho thuê trước hạn. Tuy nhiên, khi đòi lại nhà, bên cho thuê phải báo cho bên thuê trước một khoảng thời gian hợp lý.

2. Đòi lại nhà cho thuê trước hạn, chủ trọ có phải bồi thường?

Mặc dù bên cho thuê được đòi lại nhà thuê trước hạn trong một số trường hợp nêu trên nhưng nếu vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 132 Luật Nhà ở năm 2014 và gây thiệt hại thì vẫn phải bồi thường.

Theo quy định trong thời hạn thuê nhà ở thì bên cho thuê không được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở đang cho thuê, trừ các trường hợp quy định tại Khoản 2 điều này.

Trường hợp 1: Nếu thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 132.

Việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của chủ nhà của bạn là đúng theo quy định pháp luật.

Trường hợp 2: Không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 132.

Việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của chủ nhà là trái pháp luật. Do đó, nếu chủ nhà lấy lại nhà trước hạn trái luật thì phải bồi thường thiệt hại theo thiệt hại thực tế mà bên thuê phải chịu. Về mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường thiệt hại sẽ do các bên tự thoả thuận theo quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015: Lợi ích gắn với việc sử dụng, khai thác nhà thuê cùng tài sản cho thuê kèm theo, thiệt hại thực tế xảy ra với bên thuê…

Trong trường hợp các bên không thể thoả thuận được thì khi có căn cứ cụ thể, rõ ràng, bên thuê có thể khởi kiện ra Toà yêu cầu bên cho thuê bồi thường thiệt hại cho mình. 

3. Thủ tục khởi kiện bồi thường thiệt hại thực hiện như sau:

– Chuẩn bị hồ sơ: Đơn khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại; tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện là hợp lệ như hợp đồng thuê nhà, hợp đồng thanh lý hợp đồng thuê nhà…

– Cơ quan giải quyết: Căn cứ khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành, Toà án nhân dân cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khởi kiện thuê nhà.

– Thời gian giải quyết: Sau khi nộp đơn, Toà án sẽ phân công Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện, lập hồ ơ, thu thập chứng cứ, hoà giả và đưa vụ án ra xét xử… Người khởi kiện thì phải nộp tạm ứng án phí cùng cung cấp tài liệu, chứng cứ về yêu cầu khởi kiện này.

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

QUYỀN NUÔI CON VÀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG SAU LY HÔN

Quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn

Ly hôn là sự kiện làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Sự kiện này đặt ra các vấn đề liên quan đến việc nuôi con, các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung, đặc biệt là về quyền nuôi con khi ly hôn.

Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn là một nghĩa vụ pháp lý  mà cha hoặc mẹ bắt buộc phải làm đối với con, nếu con là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, khi không là người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi đã chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng việc đóng góp tiền hoặc hiện vật tương ứng với nhu cầu thiết yếu của con đồng thời phù hợp với khả năng thực tế của mình để bù đắp những tổn thất về mặt vất chất cho con khi con không được chung sống đồng thời với cha và mẹ.

1. Quyền nuôi con sau khi ly hôn

Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình 2014, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

2. Điều kiện thay đổi quyền nuôi con sau khi ly hôn

Sau khi ly hôn, vợ chồng có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con hoặc nuôi con theo quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, người trực tiếp nuôi con có thể được thay đổi khi có các căn cứ được quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình 2014, cụ thể:

– Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

– Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Lưu ý: Đối với con từ đủ 07 tuổi trở lên, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con.

Đối với trường hợp người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện thì cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con bao gồm:

– Cha, mẹ;

– Người thân thích;

– Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

– Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

– Hội liên hiệp phụ nữ.

3. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn

Theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.”

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình 2014, sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Theo đó, cấp dưỡng chỉ xảy ra khi có các điều kiện sau đây:

– Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn;

– Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng.

– Những người này không sống cùng nhau.

Do đó, khi ly hôn, những người sau đây sẽ xảy ra quan hệ cấp dưỡng:

– Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con thành niên không có tài sản tự nuôi mình, không có khả năng lao động có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Đặc biệt, dù cha, mẹ có bị hạn chế quyền với con chưa thành niên thì vẫn phải cấp dưỡng cho con (theo khoản 2 Điều 82 và khoản 3 Điều 87 Luật Hôn nhân và Gia đình).

4. Mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định mức cấp dưỡng có thể được thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó. Tức là người không trực tiếp nuôi con có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng với con hoặc với người đang trực tiếp nuôi con.

Như vậy mức cấp dưỡng có thể được thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó. Tức là người không trực tiếp nuôi con có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng với con hoặc với người đang trực tiếp nuôi con. Mức cấp dưỡng được xác định căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng này cũng có thể thay đổi do thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình khẳng định:

“Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”

Hiện nay, chưa có văn bản quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn là bao nhiêu mà hoàn toàn dựa vào thỏa thuận của các bên hoặc dựa vào thu nhập, điều kiện, nhu cầu của các bên nên để xác định mức cấp dưỡng cụ thể, Tòa án thường căn cứ vào chứng từ, hóa đơn,… liên quan đến chi phí hợp lý để nuôi dưỡng, chăm sóc con và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

5. Cha, mẹ sau khi ly hôn phải cấp dưỡng cho con đến khi nào?

Như phân tích ở trên, con chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi bản thân thì người không ở cùng con sau khi ly hôn sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Trong đó, con chưa thành niên là con con chưa đủ 18 tuổi trở lên theo Điều 21 Bộ luật Dân sự. Đồng thời, các trường hợp được chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nêu tại Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình gồm:

– Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.

– Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết.

– Vợ hoặc chồng (gặp khó khăn, túng quẫn) sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác…

Như vậy, có thể thấy, sau khi ly hôn, cha mẹ có thể không phải cấp dưỡng cho con khi thuộc các trường hợp sau đây:

– Con đã đủ 18 tuổi hoặc đã có khả năng lao động, có tài sản để tự nuôi mình.

– Cha, mẹ hoặc con chết.

6. Trốn cấp dưỡng bị xử phạt thế nào?

Theo quy định tại Điểm a khoản 3 Điều 64 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định, người không thực hiện công việc phải làm theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án như sau:

“Điều 64. Hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực thi hành án dân sự

….

3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Không thực hiện công việc phải làm theo bản án, quyết định;…”

Theo đó, nếu việc cấp dưỡng đã được quy định cụ thể tại bản án, quyết định ly hôn mà chồng hoặc vợ không thực hiện thì có thể bị phạt từ 3.000.000 – 5.000.0000 đồng.

Bên canh đó, theo quy định tại Điều 57 Mục 4 Chương II Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình quy định như sau:

“1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật

b) Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật”

Đồng thời, hành vi cố ý không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định tại Điều 186 Chương XVII Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, như sau:

“Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng

Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”

Như vậy, nếu việc cấp dưỡng đã được quy định cụ thể tại bản án, quyết định ly hôn mà chồng hoặc vợ không thực hiện thì có thể bị phạt từ 3.000.000 – 5.000.0000 đồng, xử phạt hành chính từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

NHẬP TÀI SẢN RIÊNG VÀO TÀI SẢN CHUNG CÓ NỘP THUẾ, PHÍ KHÔNG?

Việc chuyển tài sản riêng của vợ hoặc của chồng thành tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo thỏa thuận và thủ tục này trên thực tế cũng không quá phức tạp. Vậy nếu nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng có mất thuế không? Hồ sơ, thủ tục và phí phải nộp sẽ được giải đáp cho bạn trong bài viết dưới đây.

1. Được phép chuyển tài sản riêng thành tài sản chung không?

Theo quy định Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình, việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung sẽ nhập hay không theo sự thoả thuận của vợ chồng, cụ thể:

“Điều 46. Nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung

1. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng.

2. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó.

3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

2. Chuyển nhà đất thành tài sản chung phải nộp thuế, phí?

2.1. Về thuế thu nhập cá nhân

Theo quy định tại Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân, khi thuộc một trong các loại thu nhập sau đây, người có thu nhập phải chịu thuế thu nhập cá nhân:

– Thu nhập từ kinh doanh từ 100 triệu đồng/năm trở lên: Sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ…

– Thu nhập từ tiền lương, tiền công: Tiền lương, tiền cong, phụ cấp, trợ cấp trừ ưu đãi người có công, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp một lần khi sinh con…

– Thu nhập từ đầu tư vốn gồm: Tiền lãi cho vay, lợi tức của cổ phần…

– Thu nhập từ chuyển nhượng vốn: Chuyển nhượng phần vốn, chứng khoán…

– Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; quyền thuê đất, thuê mặt nước…

– Thu nhập từ trúng thưởng: Xổ số, trúng thưởng khuyến mại, cá cược…

– Thu nhập từ bản quyền.

– Thu nhập từ nhượng quyền thương mại.

– Thu nhập từ thừa kế (chứng khoán, bất động sản phải đăng ký sở hữu…), quà tặng là chứng khoán…

  • Tuy nhiên, nếu thuộc các trường hợp dưới đây thì dù có thu nhập vẫn được miễn thuế thu nhập cá nhân:

– Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, cha mẹ đẻ với con đẻ…

– Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng, cha mẹ đẻ với con đẻ…

Do đó, quan hệ vợ chồng dù chuyển nhượng, thừa kế hay tặng cho bất động sản (nhà, đất) đều không thuộc trường hợp phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

Đặc biệt, việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng không phải chuyển nhượng hay tặng cho bất động sản. Do đó, căn cứ các quy định trên, đây không phải trường hợp phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

Như vậy, việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng không phải giao dịch phải nộp thuế thu nhập cá nhân.

2.2. Về lệ phí trước bạ

Theo quy định tại điểm c khoản 16 Điều 10 Nghị định 10/2022/NĐ-CP quy định về lệ phí trước bạ, tài sản hợp nhất của vợ chồng sau khi kết hôn, tài sản phân chia của vợ chồng khi ly hôn theo bản án/quyết định có hiệu lực của Toà án là hai trong số các trường hợp được miễn lệ phí trước bạ.

Do đó, nếu nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung thì giao dịch này sẽ được miễn lệ phí trước bạ.

“Điều 10. Miễn lệ phí trước bạ

16. Tài sản của tổ chức, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng khi đăng ký lại quyền sở hữu, sử dụng được miễn nộp lệ phí trước bạ trong những trường hợp sau đây:

c) Tài sản đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng chung của hộ gia đình hoặc của các thành viên gia đình khi phân chia tài sản đó theo quy định của pháp luật cho các thành viên gia đình đăng ký lại; tài sản hợp nhất của vợ chồng sau khi kết hôn; tài sản phân chia cho vợ, chồng khi ly hôn theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.”

Trong khi đó, theo quy định trước đây, các trường hợp được miễn lệ phí trước bạ nêu tại điểm c khoản 16 Điều 9 Nghị định 140/2016/NĐ-CP (đã hết hiệu lực) chỉ quy định miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký lại tài sản đã được cấp Sổ đỏ cho các thành viên hộ gia đình mà không quy định trường hợp nhập hoặc phân chia tài sản vợ chồng.

Như vậy, từ nay, khi nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ chồng không mất thuế thu nhập cá nhân và cũng không mất lệ phí trước bạ 0,5% như trước đây.

3. Phải đăng ký khi chuyển nhà đất thành tài sản chung?

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai 2013, trường hợp chuyển nhà, đất là tài sản riêng của vợ hoặc của chồng thành tài sản chung của vợ chồng thì phải đăng ký biến động với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Đồng thời theo quy định tại khoản 6 Điều 95 Luật Đất đai 2013 thì vợ chồng có nghĩa vụ đăng ký biến động với cơ quan đăng ký đất đai trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thỏa thuận chuyển tài sản riêng thành tài sản chung có hiệu lực.

4. Thủ tục chuyển nhà đất là tài sản riêng thành tài sản chung

4.1. Hồ sơ chuyển tài sản riêng thành tài sản chung

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư 09/2021/TT-BTNMT quy định hồ sơ chuyển nhà, đất là tài sản riêng thành tài sản chung của vợ chồng gồm các giấy tờ sau:

– Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK.

– Hợp đồng, văn bản về việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của vợ hoặc chồng thành của chung vợ và chồng theo quy định.

– Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp.

4.2. Trình tự, thủ tục thực hiện

Bước 1: Nộp hồ sơ

Cách 1: Nộp hồ sơ tại xã, phường, thị trấn nơi có nhà, đất nếu có nhu cầu.

Cách 2: Không nộp hồ sơ tại xã, phường, thị trấn nơi có nhà, đất

– Trường hợp địa phương đã có bộ phận một cửa liên thông thì nộp hồ sơ tại bộ phận một cửa.

– Trường hợp chưa có bộ phận một cửa liên thông thì nộp trực tiếp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương); nếu chưa thành lập Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thì nộp trực tiếp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện.

Bước 2: Tiếp nhận hồ sơ

Bước 3: Giải quyết hồ sơ

Bước 4: Trả kết quả

Thời gian giải quyết: Không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; không quá 15 ngày đối với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, xã thuộc vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.

Hy vọng những ý kiến trên đây của chúng tôi sẽ hữu ích với anh/chị.

Để được tư vấn, hỗ trợ về các thủ tục pháp lý, bạn có thể liên hệ Luật sư, theo các phương thức sau:

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!